Bình luận về Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam

Bình luận về Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam

Sunday 17 June 2012

92 * BÚT SỬ* NHÀ SÀN * GÁI



.
.
Các nhân chứngVì nhân chứng quan trọng, chúng tôi để nguyên văn lá thư dưới đây:
Bức Thư Mật liên quan đến cuộc đời của Hồ Chí Minh.
Vợ chồng Nguyễn thị Vàng, và ông Hoàng Dũng, Ủy Viên Trung Ương Đảng, Bí Thư của ông Nguyễn văn Linh, Huỳnh Thị Thanh Xuân, cùng với thư của GS Sử Học Nguyễn Ngọc Lan gửi cho Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh.
8/20/2006
Bức Thư Mật liên quan đến cuộc đời của Hồ Chí Minh
(Lưu giữ tại văn phòng Chủ Tịch Quốc Hội Việt Nam)
Cao Bằng ngày 29 tháng 7 năm 1983.
Kính gởi Ông Nguyễn hữu Thọ Chủ tịch quốc hội nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Tôi là một thương binh đã 25 năm nay vô cùng đau khổ, không dám hé răng với ai. Không phải chỉ vì vết thương bom đạn, chiến tranh mà là một vết thương lòng vô cùng nhức nhối. Nay tôi sắp được từ giã cái xã hội vô cùng đen tối này đi sang thế giới khác, tôi phải chạy vạy rất khó khăn mới viết được bức thư này lên Chủ tịch, hy vọng ông còn lương tri, lương tâm đem ra ánh sáng một vụ bê bối vô cùng nghiêm trọng tàn ác, mà người vợ chưa cưới của tôi là một nạn nhân. Nay tôi hy vọng những tên hung thủ được lột mặt nạ trước công chúng, không để cho chúng ngồi trên đầu trên cổ nhân dân.
Nguyên từ năm 1954 tôi có người yêu tên Nguyễn thị Vàng, 22 tuổi quê làng Hà Mạ, Xã Hồng Việt, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng. Cô Vàng có người chị họ là Nguyễn thị Xuân, tên gọi trong gia đình là cô Sang tức Minh Xuân. Tôi nhập ngũ đi bộ đội cuối năm 1952. Cô Vàng và cô Xuân tình nguyện vào công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhụ. Ðược mấy tháng sau ông Trần Ðăng Ninh, Tổng cục trưởng Tổng cục hậu cần mấy lần đến gặp cô Xuân. Ðầu năm 1955 thì đem xe tới đón về Hà Nội, nói là để phục vụ Bác Hồ. Ðược mấy tháng sau thì cô Xuân cũng xin cho cô Vàng về Hà Nội, ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm với cô Xuân và cô Nguyệt con gái ông Hoàng văn Ðệ cậu ruột cô Xuân.
Ðã luôn 2 năm tôi chỉ được tiếp thư chứ không được gặp cô Vàng, người yêu của tôi. Nhưng khoảng tháng 10 năm 1957 tôi bị thương nhẹ được đưa về điều trị tại bệnh viện Huyện Hoà An. Chúng tôi vô cùng sung sướng lại được gặp nhau. Trong một tuần lể cô Vàng kể lại mọi nỗi đau xót cô đã gặp phải cho tôi nghe. Tôi xin ghi lại tỉ mỉ những lời cô Vàng tâm sự với tôi, mà không bao giờ tôi có thể lãng quên đi được. Vàng kể:
Ðầu năm 1955 cô Xuân được về gặp Bác Hồ. Bác Hồ định lấy cô Xuân làm vợ chính thức. Mấy tháng sau chị Xuân xin cho em cùng về ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm, Hà Nội. Còn tầng dưới thì cho ông Nguyễn Quý Kiên, Chánh văn phòng Thủ tướng phủ ở. Vì các lãnh đạo không cho chị Xuân cùng ở với Bác trên nhà chủ tịch phủ, giao cho ông Trần Quốc Hoàn,
Bộ trưởng bộ Công an trực tiếp quản lý chị Xuân, cho nên chị Xuân mới được đem về ở 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của Công an.
Cuối năm 1956 chị Xuân sinh được một cậu con trai. Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Em có nhiệm vụ bế cháu. Ông Bộ trưởng Công an có nhiệm vụ quản lý chị Xuân nên thường đến luôn. Nhưng một buổi tối vào khoảng mồng 6 hay mồng 7 tháng 2 năm 1957, ông Hoàn tới, ngồi nói chuyện vu vơ một tí rồi nắm tay chị Xuân, kéo vào một cái buồng xép, từ cầu thang đi lên, vật chị Xuân lên một cái giường nhỏ, định hãm hiếp. Chị Xuân bị nhét khăn vào miệng nhưng vẫn ú ớ la lên. Em hoảng sợ la tru tréo. Còn chị Nguyệt sợ quá, rúm người lại ngồi một góc tường. Nghe tiếng cửa sổ nhà dưới xô xầm vào tường, lão Hoàn bỏ chị Xuân ra, rút khẩu súng lục trong túi áo hoa lên nói to: “Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết” rồi hầm hầm chạy xuống thang ra ô tô chuồn.
Chị Xuân thất thểu đi ra khóc nức nở, ôm choàng lấy em. Em hỏi nó nắm tay chị, sao chị không văng vào mặt nó để nó dắt đi? Chị Xuân vừa nức nở vừa nói: Ðau khổ nhục nhả lắm. Chị phải nói hết để các em tha tội cho chị. Từ hôm chị mới về nhà này, có một bà già độ 60 tuổi ở một buồng dưới nhà, vợ một cán bộ Công an đã chết, lên thân mật nói chuyện với chị rằng: Sao cô ở đây một mình? Bạn đàn bà để tôi nói thật cho cô biết. Cái lão đem cô về đây là một tên côn đồ lưu manh, dâm ô tàn ác vô kể. Tôi xin kể một vài chuyện cho cô nghe. Ông Lương Khánh Thiện, một Uỷ viên Trung ương, bị đế quốc Pháp giết có con gái tên là Bình. Chị Ðường, vợ anh Thiện đem con gái gởi bác Hoàn nhờ bác tác thành cho. Lão Hoàn đã hiếp nó, nó chửa rồi chọn một tên lưu manh vào làm Công an để gả cô Bình làm vợ. Lão lại đem một cô gái có nhan sắc nhận là cháu, cũng hiếp cô gái này cho tới chửa, rồi giết chết quăng xác xuống hồ Ha Le để khỏi mang tiếng. Cán bộ Công an nhiều người biết chuyện của nó, nhưng không ai dám hở răng, vì sợ lão vu cho tội gì bắt giam rồi thủ tiêu.
Nghe chuyện đó chị cũng khủng khiếp, nhưng lại nghĩ là nó đối với mọi người khác, còn đối với mình thì nó đâu dám. Nhưng chỉ được mấy hôm sau chị nghe tiếng giầy đi nhè nhẹ lên gác, chị chạy ra thì thấy nó đi lên nhếch mép cười một cách xõ lá. Nó chào chị rồi đi thẳng vào nhà, nó ôm ghì lấy chị vào lòng rồi hôn chị.
Chị xô nó ra nói:
“Không được hỗn, tôi là vợ ông chủ tịch nước”.
Nó cười một cách nhạo báng:
“Tôi biết bà to lắm nhưng sinh mệnh bà nằm trong tay tôi”.
Rồi nó lại nói: “Sinh mệnh tất cả dân tộc Việt nam, kể cả bố mẹ anh chị nhà bà cũng nằm trong tay tôi. Tôi muốn bắt ở tù, thủ tiêu đứa nào tuỳ ý. Và tôi nói cho bà biết cụ già nhà bà cũng không ngoài tay với của tôi”.
Rồi nó rút khẩu súng lục dí vào ngực chị.
Chị ngồi xụp xuống ghế nói:
“Anh cứ bắn đi”.
Nó cười khì khì :
  “Tôi chưa dại gì bắn. Tôi tặng bà vật khác”.
Nó dắt súng vào túi quần rồi rút ra một sợi dây dù to bằng chiếc đũa, đã thắt sẵn một cái thòng lọng. Nó quàng cái tròng vào cổ chị rồi kéo chị đi lại cái giường kia, đẩy chị nằm xuống, rồi đầu sợi giây nó buộc vào chân giường. Chị khiếp sợ run như cầy sấy.
Nó nói “Bây giờ bà muốn chết tôi cho bà chết”. Rồi nó lột hết quần áo chị, nó ngồi xuống nó ngắm nghía ngâm nga:
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,
Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?
Phẩm tiên đã đến tay phàm,
thì vin cành quýt cho cam sự đời.
Rồi nó nằm đè lên hiếp chị. Chị xấu hổ lấy tay che mặt.
Nó kéo tay chị nói: “Thanh niên nó phục vụ không khoái hơn ông già mà còn vờ làm gái”.
Xong nó cởi thòng lọng cho chị, rồi nó ngồi bên chị tán tỉnh hàng giờ:
 “Anh thương em lắm. Người ta gặp hạnh phúc phải biết hưởng hạnh phúc. Nếu em thuận tình thì muốn gì cũng có.”
Nó đeo vào tay chị một chiếc nhẫn vàng, chị đã ném vào nhà xí.
Nó lại dặn: “Việc này phải tuyệt đối bí mật, nếu hở ra thì mất mạng cả lũ và tôi nói cho cô biết ông cụ tin tôi hơn cô” .
Rồi từ đó chị biến thành một thứ trò chơi của nó. Thấy bóng dáng nó chị như một con mèo nhìn thấy con cọp, hồn vía lên mây. Nó muốn làm gì thì tuỳ ý nó. Trong mấy tháng trời chị tính quẩn lo quanh, không biết tâm sự với ai mà không làm sao thoát khỏi nanh vuốt của nó. Nhớ lại lời nói của bà già, chị liền xin bác cho hai em về đây, mong tránh được mặt nó. Nhưng những hôm Công an gọi các em đi làm hộ khẩu, đi làm chứng minh thư lâu hàng buổi là nó tới hành hạ chị. Nó bảo chị phải nói cho hai em biết. Phải biết câm cái miệng nếu bép xép thì mất mạng cả lũ. Hôm nay nó lại đây trắng trợn như vậy vì nó tưởng chị đã dặn hai em rồi. Bây giờ việc đã xẫy ra chị thấy rất nguy hiểm.
Em nói: “Hay là chị em ta trốn đi”.
Chị Xuân nói: “Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác, bây giờ đã có con trai, xin bác cho mẹ con ra công khai”.
Bác nói: “Cô xin như vậy là hợp tình, hợp lý. Nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Ðức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa”.
Mấy tuần trước Bác lại hỏi chị: “Các cô ở đó có nhiều người lạ tới thăm phải không?”
Chị thưa: “Ba chị em không có ai quen biết ở Hà Nội. Còn bà con ở Cao Bằng không biết chị em ở đâu”.
Bác nói: Không nhẽ ông Bộ Trưởng Công an nói dối.
Chị suy nghĩ mãi mới thấy rõ, nó muốn vu cáo chị em ta liên hệ với gián điệp hoặc đặc vu gì đó để định kế thoát thân nếu việc của nó bị bại lộ Bây giờ ta trốn cũng không làm sao thoát khỏi tay nó, mà nó còn vu cáo giết hại ba chị em chúng ta.
Chị Xuân lại nói: “Chị bị giết cũng đáng đời, chị rất hối hận xin hai em về đây để chịu chung số phận với chị”.
Em thấy nguy hiểm vì tên Hoàn đã nổi tiếng ở Bộ Công an là một tên dâm bôn vô cùng tàn ác. Ðến độ một tuần sau, vào 7 giờ tối ngày 11 tháng 2 năm 1957, ngày em còn nhớ như đinh đóng cột. Một chiếc xe com măng ca thường đón chị Xuân lên gặp bác Hồ, anh Ninh xồm, người bảo vệ Trần Quốc Hoàn chuyển lên bảo vệ Bác, vào gặp chị Xuân nói lên gặp Bác. Chị Xuân mặc quần áo, xoa nước hoa rồi ra đi. Sáng hôm sau, 12 tháng 2, một nhân viên Công an Hà Nội đến báo tin chị Xuân gặp tai nạn ô tô chết rồi, hiện còn để ở nhà xác bệnh viện Phủ Doãn. Em hốt hoảng đưa cháu cho chị Nguyệt, ra lên xe Công an vào bệnh viện. Em không được vô nhà xác, họ nói còn mổ tử thi. Lên một phòng chờ em thấy trong phòng đã khá đông người: Công an, Tòa án, Kiểm sát viên.
Sau một tiếng, hai bác sĩ, một cán bộ Công an, một kiểm sát viên lên phòng chờ, đem theo một tờ biên bản đọc to lên cho mọi người nghe. Tử thi thân thể không có thương tích gì, thấy rõ không bị tai nạn ô tô và cũng không phải bị đâm chém đánh đập gì. Mổ tử thi trong cơ thể lục phủ ngũ tạng cũng không có thương tích gì. Da dầy không có thức ăn, không có thuốc độc. Tử cung không có tinh trùng biểu thị không bị hiếp dâm. Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị rạn nức. Mổ sọ não không còn óc, mà chỉ còn nước nhờn chảy tuôn ra. Bác sĩ tuyên bố đây có thể bị chùm chăn lên đầu rồi dùng búa đánh vào giữa đầu. Ðây là phương pháp giết người của bọn lưu manh chuyên nghiệp của nhiều nước đã xử dụng.
Em vô cùng đau khổ chạy về kể chuyện lại cho chị Nguyệt nghe để hai chị em cùng khóc. Ít lâu sau một cán bộ Công an đến bế cháu Trung đi, chúng em không được biết đem đi đâu. Rồi em thì được đi học một lớp y tá của khu tự trị Việt Bắc ở Thái Nguyên. Chị Nguyệt không biết họ cho đi đâu sống chết thế nào. Học mấy tháng thì em được chuyển về bệnh viện Cao Bằng, em khóc luôn, họ cho là em bị thần kinh nên cho về đây điều trị. May lại được gặp anh kể hết mọi chuyện cho anh nghe. Em nghĩ anh chỉ bị thương nhẹ, anh còn sống được lâu anh sẽ nói rõ cho toàn dân biết được vụ bê bối này. Còn em thì chắc chắn sẽ bị chúng giết vì em đã nói vụ này cho nhiều chị em bà con biết. Bọn hung thủ còn theo dõi em. Ở Cao Bằng có hôm em thấy thằng Ninh xồm tới gặp ông bác sĩ bệnh viện trưởng, được ít hôm họ tuyên bố em bị thần kinh được chuyển về điều trị tại Hoà An.
Tôi chỉ được gặp Vàng em tôi có một tháng, đến ngày mồng 2 tháng 11 năm 1957 cô Vàng đi về thăm ông cậu Hoàng văn Ðệ. Hung thủ đi theo rồi giết chết em tôi quăng xác xuống sông Bằng Giang đến ngày mồng 5 tháng 11 mới nổi lên ở cầu Hoàng Bồ. Tôi được tin sửng sốt chạy về cầu Hoàng Bồ thì thi hài đã được kiểm nghiệm và chôn cất rồị Nghe dư luận xôn xao bị đánh vở sọ, đồng hồ vẫn còn nguyên và người nhà đã nhận về chôn cất. Tôi đâm bổ về Hà Nội liên lạc được với một cậu bạn cùng học làm việc ở Toà án Hà Nội. Tôi kể vụ án em tôi bị giết thì bạn tôi sao cho tôi một bản Công Văn Viện Kiểm sát hỏi toà án về vụ em tôi và cô Xuân bị giết. Tôi xin sao bản văn đó trình ông để tiện việc điều trạ Vụ này nhiều người bị giết. Cô Xuân, vợ cụ Hồ Chí Minh, cô Vàng, vợ chưa cưới của tôi, cô Nguyệt, còn nhiều người ở Trường y tá Thái Nguyên nghe chuyện Vàng kể đi nói chuyện lại cũng bị giết lây.
Mấy chục năm nay tôi tim gan thắt ruột, nghĩ cách trả thù cho em tôi nhưng sức yếu thế cô đành ngậm hờn chờ chết. Theo Vàng dặn lại, tôi liên hệ với một số cán bộ về hưu Công an, kiểm sát họ cho tôi biết cậu Trung ngày đó đã được đưa về cụ Bằng nuôi. Ðộ 4, 5 tuổi thì gửi cho Chu Văn Tấn, đến năm 13 tuổi là năm 1969 ngày Bác Hồ mất thì giao cho ông Vũ Kỳ, nguyên Thư Ký của Bác, nay là Phó Giám đốc Bảo tàng Hồ chí Minh làm con nuôi. Vũ Kỳ có 2 con đẻ là Vũ Vinh và Vũ Quang, còn Vũ Trung là con nuôi; là con chị Xuân với Bác Hồ. Tôi một thương binh sắp đi qua thế giới khác, máu hoà nước mắt viết thư này nhờ một người bạn chí tình, thành tâm bảo vệ lẽ phải, đánh máy bức thư gởi tới trình ông. Mong ông lưu ý xét cho mấy việc:
1- Các ông sẵn lòng bảo vệ chân lý điều tra cho ra những đứa thủ mưu, thủ ác, chứ không truy xét những người có lương tâm phát hiện lũ tàn ác.
2- Ở xã Hồng Việt bà con bạn hữu chị Xuân vào trạc tuổi 45 trở lên còn khá nhiều đều biết rõ ràng cô Vàng, cô Xuân, cô Nguyệt và chắc gia đình của cô Xuân còn khá nhiều di vật của cô Xuân. Nhưng tất cả mọi người đều khiếp sợ, không dám hé răng. Mong ông cho điều tra thận trọng, bí mật, vì việc điều tra này bị lộ thì cả lô bà con này bị thủ tiêu.
3- Cậu Nguyễn Tất Trung còn sống khoẻ mạnh nhưng việc điều tra lộ ra thì cậu cũng dễ dàng bị thủ tiêu. Tên hung thủ lái xe đón bà Xuân đi giết là Tạ Quang Chiến hiên nay là Tổng cục Phó Tổng cục Thể dục Thể thao. Còn tên Ninh xồm thì chúng tôi không hiểu đã leo lên chức vụ nào rồi.
Từ thế giới khác kính chúc Ngài nhiều hạnh phúc.
Vợ chồng Nguyễn thị Vàng
Bằng chứng đã rõ ràng, cái tên sát nhân, đã từng lừa dối hết cả dân chúng trong cũng như ngoài nước, lại muốn nổi tiếng “cả cuộc đời vì nước vì non”. Bằng cách giết vợ, không nhận con để người đời “kính nể” thì quả là cổ kim không thể có.
Cuộc đời Hồ Chí Minh “chuyên công nghệ diễn kịch” vĩ đại… Sản phẩm của sự dối trá. Dối trá là một đặc trưng không thể thiếu, làm nền móng cần thiết để xây dựng sự nghiệp chính trị. Có vợ, chơi gái mà làm ra vẻ thanh khiết, đạo đức. Ông đã lấy vợ sinh con, nhưng giấu giếm không muốn cho bất cứ ai biết, nên thằng Nguyễn tất Trung có cha, mà không được phép gọi một tiếng. Chỉ vì bố nó làm chủ tịch nhà nước, nổi tiếng đạo đức (!) mà Thằng Trung đâm ra mồ côi cả cha lẫn mẹ! Biết có cha mà không được gần. Biết cha cao cả vĩ đại mà phải ngậm miệng. Giọt máu của mình không thương yêu nó, làm sao có thể thương yêu những đứa trẻ khác? Nói chi đến thương yêu đồng bào? “Xạo”. Con là tình yêu, là hạnh phúc, là niềm hy vọng lớn lao nhất của đời người tại sao Hồ Chí Minh bỏ qua không thương yêu? Điều này mâu thuẫn gắt gao với lương tri và lý trí sáng suốt. Bỏ tình cha con máu mủ để được tiếng hão… Thằng Trung với cái tang của mẹ là một thảm kịch đen tối trong tuổi thơ, đã vĩnh viễn chôn vùi cùng với cái chết của mẹ, người không bao giờ lên tiếng được nữa. Rồi cả thằng Trung cũng bị bịt miệng.
Hiện thực này tàn nhẫn là để dành cho cả số phận nhỏ nhoi và tội nghiệp của một thằng bé ra đời có cha mà lại không cha! và sớm bị rút khỏi cánh tay âu yếm của người mẹ, thằng Trung cũng ngây thơ không khác gì những đứa trẻ khác để rồi chẳng bao lâu bị tách rời vĩnh viễn bởi cái chết ghê rợn của mẹ, do chính cha nó là thủ phạm! Kẻ chỉ lấy việc hành hạ phụ nữ như những món đồ chơi trong khi mồm nói nào là giải phóng phụ nữ, nào là chống tư tưởng phong kiến, tôn trọng phụ nữ v.v… Nhưng không có gì có thể che đậy được mãi dưới ánh sáng mặt trời. Sự dấu diếm, giả dối cuối cùng cũng bị phát hiện để người đời chiếu các sự kiện mà đánh giá con người thật của ông.
Hồ Chí Minh là hiện thân của qui tắc sống vị kỷ của bọn thống trị cầm quyền lãnh đạo đất nước. Những kẻ đã làm những điều bạo ngược trái đạo lý con người, chính nó là nguyên nhân của những tấn bi kịch của đất nước.
Còn mẹ nó! Nông Thị Xuân, một cô gái xinh đẹp, ngây thơ ở miền núi, ăn nằm với “vĩ nhân”. Khi đã có thằng Trung rồi, lại lầm tưởng Hồ Chí Minh lấy mình làm vợ thật “Cô” xin cho hai mẹ con được ra “công khai” mà nhà kịch sĩ vĩ đại thì lại muốn giữ “tuyệt đối bí mật” để tạo hào quang “cả cuộc đời vì nước vì non nên không lập gia đình”. Thế là cô Xuân bị kịch sĩ ngầm ra lệnh giết chết tức tưởi. Chứ thủ phạm không phải là Bộ Trưởng Công An Trần Quốc Hoàn. Hắn thấy Xuân quá đẹp, bỏ thì phí của trời… nên chơi ghẹ thôi! Đây là vụ án tàn bạo, ghê tởm nhất. Cảnh ngộ cô Xuân thật đau thương khủng khiếp quá! Bi kịch này cho chúng ta thấy rằng Hồ Chí Minh đã làm tất cả những gì có thể làm, kể cả việc giết cả vợ con, với một ý đồ mà ai cũng biết đó là muốn trở thành lãnh tụ nổi tiếng thanh khiết. Chúng ta thử nghe đoạn đối thoại giữa Hồ Chí Minh và cô Xuân dưới đây:
“ Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác, bây giờ đã có con trai, xin Bác cho mẹ con ra công khai.” Bác nói: “Cô xin như vậy là hợp tình, hợp lý. Nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý nhất là ông Lê Đức Thọ, Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa ”.36
Khi họ Hồ trả lời Xuân vòng vo như vậy, số phận cô gái đã được quyết định rồi. Mà trong số những kẻ được giao nhiệm vụ không ai khác hơn là viên Bộ trưởng công an Trần Quốc Hoàn, kẻ hằng ngày quản lý Xuân…hắn chỉ làm theo đơn đặt hàng, làm theo ám hiệu của chủ. Ðây không phải là vụ giết người duy nhất mà Hoàn thực hiện theo lệnh của Hồ Chí Minh, nhưng vụ giết Xuân không bình thường cũng gây ra nhiều rắc rối về sau.
Nhận được lệnh thủ tiêu nữ thần sắc đẹp, người mà Hoàn thèm dỏ dãi từ khi Xuân mới đến, việc Hồ Chí Minh giao Xuân cho Hoàn với hắn là yến tiệc đã dọn sẵn. Nhưng khi vào bàn tiệc rồi Hoàn vẫn còn thẫn thờ, đầu óc như người trong mơ gã giơ súng lên, nhắm vào tim nàng nhưng vờ lưỡng lự…trong khi máu dê dâng cao tột đỉnh…
Như Xuân đã thuật lại: “Rồi nó lột hết quần áo chị, nó ngồi xuống ngắm nghía ngâm nga:
Rõ ràng trắng ngọc trắng ngà
Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?
Phẩm tiên đã đến tay phàm
Thì vin cành quýt cho cao sự đời” 37
Trời ơi! Cưỡng lại thế nào được? Hoàn biết rõ Hồ Chí Minh không bao giờ xen vào việc này, nên cứ thả dàn…
Nó lột truồng Xuân ra và vội nhảy lên ngựa, nàng hốt hoảng đẩy hắn ra:
“Không được hỗn, tôi là vợ ông Chủ Tịch nước.”
Nó cười một cách nhạo báng:
“Tôi biết bà to lắm nhưng sinh mệnh của bà nằm trong tay tôi”.
Rồi từ đó chị biến thành trò chơi của nó.”   38
Mối liên hệ tình dục giữa Hoàn và Xuân được đẩy lên cao, nàng Xuân có sức cám dỗ quá mãnh liệt. Nhưng không thể kéo dài hạn định mà Hồ Chí Minh đã giao cho hắn, nên hắn buộc lòng phải giết Xuân. Chúng ta lại nghe một đoạn đối thoại nữa giữa Hồ Chí Minh và Xuân để sự việc được sáng tỏ hơn.
“Mấy tuần trước Bác lại hỏi chị: “Các cô ở đó có nhiều người lạ tới thăm phải không?”
Chị thưa: “Ba chị em không có ai quen biết ở Hà Nội, còn bà con ở Cao Bằng không biết chị em ở đâu.”
Bác nói: “Không nhẽ ông Bộ trưởng công an nói dối.”
Chị suy nghĩ mãi mới thấy rõ, nó muốn vu cáo chị em ta liên hệ với gián điệp hoặc đặc vụ gì đó để định kế thoát thân nếu việc ấy bị bại lộ. Bây giờ ta trốn cũng không làm sao thoát khỏi tay nó, mà nó còn vu cáo giết hại ba chị em chúng ta.”  39
Trời! Giữa miệng hùm hang sói, ai mà cả gan dám bén mảng đến? Nàng Xuân, không hiểu (ba chị em cô ở đây) là món hàng bí mật quốc gia số 1, nó quan trọng đến mức đích thân viên Bộ Trưởng CA đứng ra quản lý, trực tiếp đưa Xuân đến Dinh chủ tịch khi Hồ Chí Minh cần giải quyết sinh lý, rồi lại trực tiếp đưa nàng về, trên gác nhà 66 Hàng Bông, tuyệt đối bí mật đến như thế! Món đồ chơi quốc bảo được giữ gìn đến như thế! Mà lại có khách lạ đến thăm thì kịch sĩ hơi dở và vụng về ở màn trình diễn này rồi. Hơn nữa lời Tổng Bí Thư Lê khả Phiêu (người cha đẻ của cái lực lượng vũ trang) mà ngây thơ vậy sao?
Ở đây nó biểu lộ trực tiếp cách suy nghĩ và hành động: Loanh quanh vòng vo với những câu hỏi và trả lời giữa chừng qua đó để lộ sự nguy hại cho đến khi nó bộc lộ tính cách tàn nhẫn.
Tội nghiệp cho những cô gái xinh đẹp dễ thương như Xuân! Ngay cả trong sự phù phiếm và vô trách nhiệm với đứa con trai Nguyễn Tất Trung hoàn toàn là sự thật, nó là sản phẩm, đồng thời là nạn nhân của Hồ Chí Minh sinh ra. Ông là người ích kỷ và tàn nhẫn, bởi thế, ngay khi cô gái tưởng rằng có thể sống hết mình vì ông, với tất cả sự trong trắng ngây thơ!
Ôi bao nhiêu cô gái xinh đẹp bị cầm tù rồi biệt tăm! Chỉ để giữ danh tiếng cho Chủ Tịch, họ chỉ cần giải quyết sinh lý tiêu diệt tình cảm của các cô đối với người thân, ngay cả cha mẹ của các cô cũng chẳng mang lại ơn phước gì, nếu không phải là tai họa như Nông Thị Xuân. Cô gái tưởng như trời phú cho sắc đẹp, chỗ mạnh nhất của người phụ nữ. Đã bạc mệnh và còn là nguyên nhân gây thảm kịch cho nhiều người thân. Theo lá thơ tuyệt mệnh của vợ chồng Nguyễn Thị Vàng gửi cho ông Nguyễn Hữu Thọ - Chủ Tịch Quốc Hội Việt Nam thì cô Nguyệt, cô Vàng và nhiều người ở trường y tá Thái Nguyên nghe chuyện Vàng kể đi, nói chuyện lại, tất cả những người nghe đều bị giết.
Câu chuyện thương tâm và ghê tởm này được vợ chồng Nguyễn Thị Vàng, một thương binh thân nhân của Xuân kể lại, ông bi quan vì ông nhận thấy thời đại mình thật “điên đảo, dã man”. Nguyên nhân của những tình trạng “điên đảo, dã man” đó ở đâu? Ai đã giết những đứa em gái của ông, ông chỉ nhắc ra Trần Quốc Hoàn, còn kẻ giấu kín tâm địa của chúng, khoác áo đạo đức ngụy trang, ông khó có thể nhận ra chân tướng của nó, trong thư gửi cho Chủ Tịch Quốc Hội Cộng Sản - Nguyễn Hữu Thọ, ông Viết: “Tôi, một thương binh sắp đi qua một thế giới khác, máu hòa nước mắt viết, thư này nhờ một người bạn chí tình, thành tâm bảo vệ lẽ phải, đánh máy bức thư gửi tới ông. Mong ông lưu ý xét cho.” - Ai mà dám xét Bác với Ðảng?...
Những điều trình bầy trong thư của người thương binh hôn phu của cô Vàng, em ruột cô Xuân khá cụ thể và đầy đủ. Ðây là một câu chuyện có thật trăm phần trăm, chứ không phải giai thoại, do nhiều nhân chứng thuật lại.
Còn nhiều cảnh ngộ của các cô gái khác, tôi chỉ nhắc lại chuyện cô Xuân vì nó có ý nghĩa điển hình mà nhiều người đã biết còn thời gian gần đây người ta đã phát hiện được những đứa con hoang ở vụ án khác thuộc loại “rậm rạp” thời gian và tội ác! Sự thối rữa trong những hoang tưởng thì còn nhiều…Tôi tạm trích dẫn bài viết của ông Hoàng Dũng cán bộ Văn Phòng Trung Ương Đảng trong bài “Những bí ẩn về tân thủ tướng Việt Nam” nhưng chỉ nói riêng về những sự kiện liên quan đến Hồ Chí Minh. Ông Dũng viết:
“Trong quá trình công tác tôi có may mắn được làm việc một khoảng thời gian ngắn với cố Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh. Khoảng thời gian này không dài nhưng lại là khoảng thời gian rất quý báu đối với tôi bởi vì đã học được nhiều điều và hiểu được nhiều điều từ cơ quan quyền lực cao nhất, từ người đứng đầu bộ máy lãnh đạo Việt Nam. Trong đó có những câu chuyện mà qua hàng chục năm giữ kín, “đào sâu chôn chặt”, suy xét, kiểm nghiệm đến ngày hôm nay mới dám nói ra, bởi vì nó có liên quan đến những con người và hoàn cảnh lịch sử của đất nước ta trước đây, ngày hôm nay, và có thể nó sẽ ảnh hưởng đến tương lai dân tộc ngày mai.(…).
Sau này khi cụ Nguyễn Văn Linh thôi giữ chức Tổng Bí Thư Ðảng, tôi không còn được làm việc với cụ nữa, nhưng thỉnh thoảng có dịp ra vào công tác tôi vẫn ghé thăm cụ, hoặc là ghé thăm Bình, vài tháng một lần. Mỗi lần gặp cụ lại hỏi thăm tình hình công việc, tình hình tổ chức nội bộ, tình hình các địa phương. Cụ tỏ thái độ than phiền với những người kế nhiệm và đặc biệt kêu ca về khâu tổ chức cán bộ và quy hoạch lãnh đạo cao cấp.
Vài năm sau đó nữa, lúc này sức khỏe của cụ tỏ ra đã yếu hơn trước rất nhiều, cụ ít đi lại hơn. Một buổi tối tôi đến thăm cụ, thấy cụ có vẻ không được khỏe, tôi không dám nói chuyện nhiều, sau khi hỏi thăm cụ vài câu tôi định đứng dậy ra về, nhưng cụ bỗng khoát tay ra hiệu bảo tôi hãy ở lại chơi và sau đó lại kéo tôi vào buồng trong. Tôi hiểu là cụ muốn trao đổi một chuyện gì đó, chắc là quan trọng hơn.
Vừa ngồi xuống là cụ hỏi ngay: mấy hôm nay cậu có theo dõi vụ Tổng công ty Tracodi mà báo chí vừa đưa tin không? Tôi đáp: Dạ, có biết chứ ạ! Nhưng cũng chưa rõ lắm đúng sai thế nào? Cụ lại quay sang hỏi: Thế cậu có biết cái tay Tổng Giám Đốc Phan Thanh Nam là người như thế nào không?
Tôi chợt hiểu ra có điều gì đó quanh vấn đề này, thời gian trước đó đã có dư luận xôn xao quanh chuyện Phan Thanh Nam là con rơi của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, cánh cán bộ văn phòng chúng tôi đều có nghe nhưng vẫn không biết thực hư thế nào, nên cũng chỉ coi như một tin đồn nhảm.
Bỗng cụ ghé sát gần tôi và nói: Những chuyện này mà tao không nói cho các cậu thì sau này sẽ chẳng có ai được biết đến nữa.
Thế là bỗng nhiên tôi trở thành một nhân chứng để ghi nhận những sự kiện ghê gớm thế này, những sự kiện đã gắn liền với lịch sử Cách mạng Việt Nam nhưng không bao giờ được chép trong sử sách và nó là một bộ mặt thật hoàn toàn khác với những gì mà nhân dân được biết về lãnh đạo Việt Nam.
Theo cụ Nguyễn Văn Linh kể thì Bộ chính trị lúc bấy giờ, (tất nhiên đứng đầu là Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ chỉ đạo, điều này thì sau này không ai là không biết), biết rằng cụ Hồ gặp những thiếu thốn và khó khăn về tình cảm cá nhân, như chuyện muốn nối lại mối tình duyên với người vợ cũ ở Trung quốc nhưng đã bị phản đối (đây là một câu chuyện có thật đã được phía Trung quốc công bố từ những thập niên 80, 90 của thế kỷ trước. Về việc này tôi lại nhớ về sự kiện bài báo “Bác Hồ có vợ?” được đăng trên báo Tuổi Trẻ của tác giả Kiến Phước - Trưởng đại diện báo Nhân Dân tại TP. Hồ Chí Minh, chính vì bài báo này mà sau đó Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ là Nguyễn Kim Hạnh, cũng chính là vợ ông Kiến Phước, bị mất chức. Sau này có lần đến chơi với hai vợ chồng Kiến Phước - Kim Hạnh ở trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, cũng gần khu T78, nhắc lại chuyện này họ lại buồn và phản ứng ghê lắm). Do vậy sau đó Bộ chính trị có bí mật sắp xếp nhiều người phụ nữ khác để chăm sóc và phục vụ cụ Hồ về mặt sinh hoạt tính dục. Ðặc biệt, từ thuở còn thanh niên, cụ Hồ đã có một mối tình đầu rất đẹp với một người con gái miền Nam (sự thật này đã được nhà văn Sơn Tùng sưu tầm và công bố trong bài viết “đi tìm Út Huệ”), do vậy cụ Hồ có một ấn tượng và thiện cảm đặc biệt với những người phụ nữ Nam bộ. Biết thế nên Bộ Chính Trị đã chỉ đạo cho Trung Ương Cục miền Nam, mà lúc này Nguyễn Văn Linh là Bí thư Trung Ương Cục, phải kín đáo tìm kiếm trong số những cán bộ, du kích miền Nam một vài cô gái còn trẻ, đẹp để đưa ra miền Bắc phục vụ cụ Hồ và các vị trong Bộ Chính Trị.
Thời điểm đó thì Võ Văn Kiệt đang là ủy viên Trung Ương Cục được cụ Nguyễn Văn Linh tin tưởng tuyệt đối và giao cho trực tiếp phụ trách nhiệm vụ đặc biệt này. Trong số vài cô gái tuyển lựa được lúc đó đang chuẩn bị bố trí bí mật đưa ra miền Bắc, có một cô còn trẻ và rất sắc sảo họ Phan. Giữa lúc đó thì tình hình chiến sự đang diễn ra khá ác liệt nên không thể đưa các cô đi ngay được và rồi không hiểu thế nào mà ông Kiệt lại quan hệ dan díu với chính cô gái họ Phan kia. Ðến lúc sự việc vỡ lở thì cô gái đã có thai được mấy tháng rồi. Thế là cô ta phải ở lại và cái bào thai đó chính là vị tổng Giám đốc Tracodi: Phan Thanh Nam sau này.
Nghe đến đây tôi cảm thấy vô cùng sửng sốt và bỗng thấy rùng mình hết cả người. Rõ ràng người đang kể ra những sự việc đó là một người đã từng giữ trọng trách cao nhất trong Ðảng Cộng Sản Việt Nam, một người trong số vài ba người được biết rõ nhất, chính xác nhất về câu chuyện này, một người trong số vài ba người hiếm hoi biết được những chuyện thâm cung bí sử nhất trong Trung Ương Ðảng Cộng Sản, một người mà cái tuổi đã vượt quá ngưỡng “cổ lai hy” rồi. Như vậy không thể là nói thiếu chính xác hoặc vô căn cứ được, càng không thể là nói xấu tổ chức Ðảng và lãnh tụ được. Như vậy những chuyện tày trời kia là có thật ư?...
“Sau buổi tối hôm ở nhà cụ Nguyễn Văn Linh ra về tôi bàng hoàng và băn khoăn nhiều lắm. Như vậy những thứ được gọi là tư cách, đạo đức, mẫu mực của các lãnh đạo cao cấp của Ðảng ta thật ra chỉ là những thông tin tuyên truyền thôi ư? Và những kẻ bày ra những trò này chắc cũng không ngoài mục đích nhằm thao túng cụ Hồ và thao túng cả Bộ Chính Trị? Vậy thì đã có biết bao cô gái trẻ đã bị đánh mất tuổi thanh xuân và sự trinh trắng ở đó, và để đảm bảo tuyệt đối bí mật của những thông tin này, dứt khoát phải có nhiều người đã bị thủ tiêu hoặc làm cho mất trí nhớ hoàn toàn. Như vậy những câu chuyện đồn thổi về những bóng ma trong quảng trường Ba Đình phải chăng cũng là có thật? Thật bi thảm và khủng khiếp quá!
Những sự việc cụ Nguyễn Văn Linh đã kể lại cho tôi chắc chắn cũng phải còn ít nhất là một vài người khác được biết, thế nhưng cho đến nay vẫn chưa có ai dám công khai nêu lên. Trước thực trạng đầy bất ổn của tình hình chính trị đất nước cùng với tấm lòng cảm mến và kính trọng cố Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh, tôi nhận thấy chính mình phải có trách nhiệm nói ra những điều này, tôi xin hoàn toàn đảm bảo về tính trung thực và chính xác của sự việc này. Tôi cũng mong rằng sau khi sự thật này được đưa ra ánh sáng thì sẽ có thêm nhiều bằng chứng khác của các vị lão thành Cách mạng, của những ai có may mắn được biết đến những sự việc trên, sẽ bổ sung đầy đủ hơn để bạch hóa hoàn toàn những bí ẩn này.
Thứ nữa, tôi muốn thông báo đến giới trẻ, những người chủ tương lai của đất nước được biết rằng: có rất nhiều những sự thật mà các bạn không có cơ hội được biết đến, mà lẽ ra trong xã hội hiện đại, truyền thông đa phương tiện ngày nay, các bạn cần phải biết tất cả những sự thật, những điều trắng đen rõ ràng để tự xây dựng cho mình những tư duy sống, những quan điểm tự nhiên chứ không phải những ý thức hệ bị cưỡng bức, những tư tưởng bị chỉ đạo.
Cuối cùng, tôi muốn gửi thông tin này đến tất cả mọi người dân với mong muốn rằng nhân dân chúng ta đều càng ngày càng được cởi mở hơn trong tiếp nhận thông tin, tiếp nhận sự thật. Những sự thật lịch sử cần phải được tôn trọng và dần dần cần được giải mã trước công chúng. Những sự việc gây ảnh hưởng đến vận mệnh đất nước cần phải được minh bạch và công khai. Từ đó mỗi người dân cần có thái độ và đóng góp trách nhiệm của mình một cách rõ ràng trước những điều hệ trọng của đất nước. Nhân dân cần phải thay đổi thói quen chấp nhận để đời sống chính trị bị lệ thuộc bởi một cá nhân nào, một đảng phái nào, hay một thể chế nào, một chính phủ nào, mỗi người phải có quyền và nghĩa vụ tự quyết định cho riêng mình trong một xã hội văn minh, dân chủ.”
Hà Nội ngày 9 tháng 10 năm 2006.
Ông Hoàng Dũng cán bộ văn phòng Trung Ương Đảng xác nhận:
“Cụ Hồ có một ấn tượng và thiện cảm đặc biệt với những người phụ nữ Nam bộ. Biết thế nên Bộ chính trị đã chỉ đạo cho Trung ương cục miền Nam, mà lúc này Nguyễn Văn Linh là Bí thư Trung Ương Cục, phải kín đáo tìm kiếm trong số những cán bộ, du kích miền Nam một vài cô gái còn trẻ, đẹp để đưa ra miền Bắc phục vụ cụ Hồ và các vị trong Bộ chính trị.”
Thêm một nhân chứng khác:
Gần đây GS. Lê Văn Lan, Chủ tịch Hội Khoa Học Lịch Sử miền Bắc, kỳ Đại Hội Đảng Cộng Sản VN X 2006 đã đòi ông Nông đức Mạnh, Tổng Bí Thư Ðảng Cộng Sản VN bạch hóa một số vấn đề bí ẩn về Hồ Chí Minh. GS. viết:
*
Ngày 10/9/2005 tôi đã nhận được giấy mời (kèm theo những dự thảo văn kiện) tham dự hội nghị đóng góp ý kiến cho những văn kiện lịch sử tại Đại Hội 10 của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Là người trực tiếp nghiên cứu đề tài Lịch Sử Cận Đại Việt Nam. Tôi xin phép được trình bày những ý kiến ngắn gọn và chủ chốt như sau:
1. Công bố toàn bộ bản di chúc gốc của Chủ Tịch Hồ Chí Minh trên các phương tiện thông tin đại chúng.
2. Công nhận chính thức anh Nguyễn Tất Trung hiện đang sống và làm việc tại Hà Nội là con trai duy nhất của Chủ Tịch Hồ Chí Minh khi người là chủ tịch nước (nhân chứng là gia đình ông Vũ Kỳ, thư ký riêng của Hồ Chủ Tịch trong những năm cuối đời).
3. Đề nghị đồng chí Nông Đức Mạnh trả lời rõ ràng trước báo chí thế giới và trong nước về vấn đề nghi vấn đồng chí Nông Đức Mạnh là con của Chủ Tịch Hồ Chí Minh là hoàn toàn không có cơ sở lịch sử cũng như sinh học (có thể kiểm chứng DNA).
4. Đề nghị làm rõ sự liên quan của Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ Trần Quốc Hoàn trong vụ án hiếp dâm và tai nạn xe (còn rất nhiều bí ẩn) tại Hà Nội mà người bị nạn là bà Nông (Nguyễn) Thị Xuân người Nùng, thân mẫu của anh Nguyễn Tất Trung. Nhân chứng là:
- Ông Nguyễn Minh Cần – cựu Phó Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chính Thành Phố hà Nội.
- Ông Lê Giản – Bộ Trưởng Nội Vụ đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
- Ông Lê Quốc Thân hồi đó là Giám Đốc Sở Công An Hà Nội, về sau là Thứ Trưởng Bộ Công An.
- Ông Trần Danh Tuyên – cựu Bí Thư Thành Ủy kiêm Phó Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Thành Phố.
Tôi biết rằng những ý kiến đóng góp của tôi có thể gây sốc cho nhân dân. Nhưng khi Đảng đã tin mà hỏi thì chẳng có lẽ gì mà không đặt vấn đề một cách thật tâm. Với một người mang nợ viết, nghiên cứu lịch sử thì khổ tâm nhất là không được nói thật và lừa dối nhân dân lao động, tôi mong rằng bức thư này sẽ đến tay nhân dân bằng mọi hình thức trước khi mọi việc được công bố để giảm sốc. Nếu có thể đề nghị anh Nguyễn Như Phong đăng lên báo An Ninh Thế Giới, tuy không phải là một tờ báo về chuyên ngành lịch sử nhưng có số độc giả là người Việt cao nhất trong nước cũng như người Việt sinh sống và làm ăn ở nước ngoài.
Hà Nội ngày 10 tháng 12 năm 2005
Lê Văn Lan
Chủ Tịch Hội Khoa Học Lịch Sử Miền Bắc”
*
* *

Tài liệu phụ lục
Ai là mẹ của Nông Đức Mạnh?
Sau ngày cộng sản Liên Sô và Đông Âu sụp đổ, nhiều tài liệu và tin tức được phổ biến về sự thật con người Hồ Chí Minh(HCM), cũng như về cuộc đời riêng tư của người lãnh tụ Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Những người đàn bà của HCM và mẹ của Nông Đức Mạnh là ai?
Mối tình với cô gái người Nùng tên Nông Thị Xuân được bạch hoá rõ ràng nhất qua nhiều nhân chứng còn sống viết và kể lại. Tại Hà Nội, cô Xuân được lệnh ở nhà riêng số 66 Hàng Bông Nhuộm, nhưng vẫn phải đến “gặp” bác Hồ. Năm 1956, Nông Thị Xuân sinh cho HCM một người con trai đặt tên Nguyễn Tất Trung. Sau đó Xuân có ý muốn chính thức hoá cuộc hôn nhân với “Hồ Chủ Tịch”. Ngày 11 tháng 2, 1957, vào khoảng 7 giờ tối, Xuân được ô tô đón sang gặp HCM. Sáng hôm sau, ngày 12 tháng 2, 1957, công an báo tin cho cô Vàng (em cô Xuân) là Xuân đã chết vì tai nạn ô tô. Liền sau đó cô Vàng đến thăm xác chị ở nhà thương Phủ Doãn và chứng kiến biên bản khám nghiệm tử thi của bác sĩ. Bác sĩ cho biết nạn nhân không chết vì tai nạn ô tô, vì khám toàn cơ thể không có dấu hiệu gì cả ngoại trừ vết nứt trên sọ đầu, và bác sĩ đã tuyên bố, có thể nạn nhân bị trùm chăn trên đầu rồi bị đập bằng búa..
Cô Vàng vội chạy về báo tin ngay cho người chồng sắp cưới là một bộ đội đang bị thương tật sống ở tỉnh Cao Bằng. Vàng biết chắc rằng cô cũng sẽ bị thủ tiêu vì cô chứng kiến sự thật chị của cô do HCM âm mưu sát hại.Thật vậy, ngày 2 tháng 11, 1957, cô Vàng bị giết chết và xác được tìm thấy trên sông Bằng Giang, đến ngày 5 tháng 11 xác mới nổi lên ở cầu Hoàng Bồ.
Tin này được phổ biến rộng rãi hơn nhờ lá thư của anh bộ đội này đệ lên Nguyễn Hữu Thọ, chủ tịch Quốc Hội CHXHCN VN, vào ngày 29 tháng 7, 1983, trước khi anh qua đời sau cơn bạo bệnh. Trong lá thư anh bộ đội đã kể đầy đủ chi tiết những gì cô Vàng đã kể cho anh nghe, cả việc bộ trưởng Công An Trần Quốc Hoàn được HCM giao phó trông coi cô Xuân. Trong thư kể lại hình ảnh Trần Quốc Hoàn đã hãm hiếp cô Xuân rất tàn nhẫn trước đó một tuần khi được lệnh giết cô Xuân.. Hơn nữa, anh bộ đội còn cho rằng Nguyễn Tất Trung có thể bị thủ tiêu nếu bị tiết lộ tông tích. Do đó đến ngày hôm nay người ta chưa biết Nguyễn Tất Trung làm gì và ở đâu. Tuy nhiên, năm 2007, nhà văn đấu tranh trong nước, bà Trần Khải Thanh Thủy, đã tìm hiểu về tông tích của Trung và chính bà đã tìm gặp anh ta. Qua việc kể lại của Trần Khải Thanh Thủy người ta không ngần ngại gì nữa khi cho rằng Nguyễn Tất Trung chính là con của HCM. Được biết anh ta hiện đang được Đảng “nuôi” đàng hòang trong khu nhà sang trọng tại Hà Nội.
Toàn bộ lá thư của anh bộ đội được đăng trong cuốn “Công Lý Đòi Hỏi” của cựu đảng viên Nguyễn Minh Cần, xuất bản 1997. Ông hiện tỵ nạn chính trị tại Nga. Ngoài ra, câu chuyện cô Xuân này cũng được nhắc tới trong cuốn “Đêm Giữa Ban Ngày” của Vũ Thư Hiên, cũng một cựu đảng viên.
Nói chung về những người đàn bà trong đời HCM thì nhiều lắm. Người ta đã khám phá qua những tài liệu trong các văn khố bên Nga, bên Pháp, và các nơi. Sau hơn 20 năm sưu tầm nghiên cứu về con người HCM, ông William Duiker, mặc dù hâm mộ họ Hồ vì nghĩ rằng ông ta có lòng yêu nước (ông đã đọc những sách tuyên truyền của cộng sản?) cũng đã khám phá ra cái bản chất mưu mô của người cộng sản này, đồng thời tác giả còn đề cập đến những người phụ nữ đã đi qua trong đời Hồ.
Một cách vắn tắt, trước tiên phải nói đến Tăng Tuyết Minh, người vợ Hồ cưới đầu tiên tại Canton,Trung quốc. Hai người có đám cưới hẳn hoi. Không nắm rõ hai người làm đám cưới ngày tháng nào, nhưng vào tháng 4, 1927, Hồ bỏ Tuyết Minh đi hoạt động ở các khu vực khác theo chỉ thị của quốc tế cộng sản. Hơn nữa trong lúc này phe Tưởng Giới Thạch đang ruồng bắt các tổ chức cộng sản nên Hồ tìm đường tẩu thóat cũng là lý do đáng kể.
Sau đó thì phải nói tới mối tình được nhiều người bàn tán là giữa HCM và Nguyễn Thị Minh Khai vào đầu Xuân 1931. Theo Bùi Tín, một cựu đảng viên, lý lịch của Minh Khai được ghi trong tài liệu quốc tế cộng sản . Minh Khai ghi rõ ràng chồng là Lin (bí danh Nguyễn Ái Quốc tức HCM). Đã có lần ông Hồ đệ đơn lên cưới Minh Khai nhưng bị cấp trên Đảng Cộng Sản Quốc Tế bên Nga chưa cho phép. Minh Khai còn có bí danh là Trần Thị Lan, Phan Lan, nên sau khi HCM lấy bút hiệu T. Lan viết sách “Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyên...” tự ca ngợi mình thì người ta cho rằng có thể Hồ lấy bút hiệu đó để tưởng nhớ đến Minh Khai, người nữ cán bộ cộng sản trẻ tuổi đã bị Pháp xử tử.
Trong “Ho Chi Minh” tác giả William Duiker có ghi một phụ nữ trẻ khác tên Lý Sâm, lúc đó là vợ của Hồ Tùng Mậu, đồng chí của HCM. Lý Sâm và HCM đã bị cảnh sát Hongkong bắt tại một phòng hotel khi hai người đang trong phòng ngủ, lúc 2 giờ sáng ngày 6, tháng 6, 1931.
Sau khi bị tù tại Hongkong, Hồ có tên mới là Tống Văn Sơ. Sau khi rời khỏi HongKong HCM đổi nhiều tên họ khác nhau để tiếp tục hoạt động. Có những nguồn tin cho biết khi ông trở về lại Nga, đàn anh cũng đã tìm cho Hồ một người phụ nữ Nga để làm vợ...Trong cuốn “Con Rồng Việt Nam” tác giả cựu hòang Bảo Đại ghi “Hồ Chí Minh có một người vợ Nga và có chung một người con gái, nhưng ông ta không bao giờ nhắc đến” ( trang 205). Sở dĩ cựu hoàng Bảo Đại biết chuyện này nhờ những dịp đi “công tác” với Võ Nguyên Giáp vào 1945. Ông Giáp đã kể lại một số sự thật về HCM, lúc này Bảo Đại mới biết rõ HCM là tên quốc tế cộng sản nên tìm đường lưu vong.
Một trong những người phụ nữ Tây Phương có cô Marie Bière. Thành Tín tức Bùi Tín ghi trong “Về Ba Ông Thánh”, xuất bản 5/1995, (trang 149): “ Theo tài liệu Pháp, khi trẻ tuổi, làm thợ ảnh, ông Hồ có quan hệ với một cô đầm tên là Marie Biere nào đó..” Cũng theo Bùi Tín nói về tài liệu tham khảo của Sophia Judge, một nữ sử học gia Hoa Kỳ rành tiếng Việt đã bỏ nhiều năm nghiên cứu, sưu tầm tài liệu về ông Hồ, nhất là 2 năm tại Moscow... Ông Hồ có người tình tên Vera Vasilieva. Vera có con gái riêng, và cô này kể cho bà Sophia nghe. “Về Ba Ông Thánh”, (trang 151): “Vào dịp đại hội 7 của quốc tế cộng sản, cô ta mới 10 tuổi, nhưng còn nhớ ông Hồ thường ghé chơi nhà mẹ cô ta và một số lần ngủ lại trên ghế dài vào năm 1934...”
Theo tài liệu của bà Sophia Judge, Bùi Tín, cùng sách trên (trang 153): “Anh thanh niên Quốc ăn mặc rất chải chuốt , luôn mang cà vạt màu rất diện, xức cả nước hoa cực thơm. Ông còn để lại khi về nước một va-ly áo quần ông sắm cho vợ ông tòan là lọai sang, cô bé Nga này lấy ra dùng bao nhiêu năm mới hết!”
Ông Hồ cặp tay đi dạo với một cô gái Tây phương trong một hình được phổ biến rộng rãi ngoài đời và internet cũng không lấy làm lạ.(hình từ nguồn của Sở Mật Thám của Pháp). Lúc này ông Hồ đã khá già, có lẽ trên 70.
Đàn ông hay đàn bà thay chồng đổi vợ cũng là lẽ thường. Cái đám cưới chính thức với Tăng Tuyết Minh đã có nhiều tài liệu để lại, nhưng HCM và Đảng chưa bao giờ tuyên bố Hồ có vợ con, đừng nói chi bao mối tình khác diễn ra sau đó. Đàn ông độc thân dẫn bạn gái đi dạo là chuyện rất thường, hoặc nhiều vợ nhiều con có khi cũng được thế gian thông cảm. Nhưng khác thường là HCM đã tự tạo cho mình thành một huyền thoại khi vào năm 1948, chính HCM lấy bút hiệu Trần Dân Tiên viết “Những Mẩu Chuyện về Đời Hoạt Động của Hồ Chủ Tịch” tự ca ngợi mình, cho mình còn độc thân, cả đời chỉ biết lo cho dân cho nước.
Thêm nữa, trong sách “Năng Động Hồ Chí Minh,” tác giả Thép Mới cũng đã ghi (trang 143): “Bác giới thiệu với bản làng người nữ cán bộ hôm qua cùng về với Bác: -Đây đồng chí Lạc thay cháu Nông Thị Trưng về đây ở với đồng bào...”
Nông Thị Trưng là ai?
Đặc biệt hơn hết là môt phụ nữ cũng người sắc tộc thiểu số, Tầy, khá xinh đẹp tên Nông Thị Ngác (không ngạc nhiên vì vùng rừng núi Cao Bằng làm sao có gái Việt Nam chính thống). Lý do câu chuyện tình đặc sắc này được nổi bật những năm sau này là do cuộc phỏng vấn của tờ báo Xuân trong nước vào khoảng năm 1997. Nhà báo có phỏng vấn bà Nông Thị Ngác, một chứng nhân sống nói về “Bác Hồ”. Bà Ngác đã không dấu diếm chi cả những gì đã xảy ra trong thời gian HCM tại hang Pac Bo vào đầu thập niên 40. Bà kể hằng ngày Ngác đến “học tập” với HCM ròng rã cả năm. Hồ căn dặn Ngác không nên gọi Hồ bằng “Bác” mà hãy gọi là “Chú Thu” và xưng “Cháu”. Thế thì sau đó chú cháu tiê’p tục học tập...
Được biết sau thời gian rời Pac Bo, HCM cướp chính quyền thành công, trở thành người lãnh tụ chính thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam, người nữ cán bộ gương mẫu mà Hồ yêu quý, tức Nông Thị Ngác, lại được cất chức làm Chánh Án Toà Án Nhân Dân tỉnh Cao Bằng.....Ông Hồ yêu quý Ngác đến độ đặt cho người nữ cán bộ này một tên nữa là Nông Thị Trưng, ý giống như Trưng Trắc, Trưng Nhị vậy. Tin Nông Thị Ngác là ai cũng đã được người dân trong nước bàn tán. “Chú Thu” và “Cháu Trưng” cũng đã được nhắc tới trong các sách tuyên truyền của cộng sản, nhất là các tác giả Trần Khuê, Thép Mới...
Thép Mới kể lại trong “Năng Động Hồ Chí Minh” (trang 48) rằng sau 20 năm ngày rời Pac Bo, ông HCM trở lại, 1961, lúc này coi như sự nghiệp khá thành công, ông có thời giờ về thăm lại người cũ, cảnh xưa. Khi vào nhà thăm gia đình bà Ngác, HCM tiếp xúc với ông Dương Đại Lâm, người mà trước đây HCM đã gởi gắm Ngác vào gia đình (không nhắc Ngác đang ở đâu), các cháu vây quanh HCM thân mật... Tác giả còn nhấn mạnh một trong các cháu đã trở thành “thanh niên tuấn tú” góp phần xây dựng đất nước.
Cùng sách trên, Thép Mới ghi (trang 43): “Bác trực tiếp hỏi chuyện, nghe kể về hoàn cảnh gia đình và bản làng đau khổ, rất thương, nhận làm cháu nuôi, đặt cho bí danh là Trưng, Nông Thị Trưng. Trưng ở với vợ chồng Đại Lâm, tên tục là Sù, hàng ngày được đến lán Bác một giờ để Bác chỉ bảo.”...Như vậy rất rõ, Nông Thị Ngác có bí danh là Nông Thị Trưng.
Vào tháng 4, 2001, Nông Đức Mạnh từ một người chưa thâm niên về chính trị lại được đưa lên làm Tổng Bí Thư Đảng. Tin cho rằng Nông Đức Mạnh là con của HCM lan rộng khắp nơi, từ trong nước ra đến hải ngoại. Khi có lời đồn này dĩ nhiên phải có sự bắt nguồn nào đó đi ra. Được tin này báo ngoại quốc Time đã làm cuộc phỏng vấn hỏi Nông Đức Mạnh có phải là con của HCM? Ông Mạnh không trả lời xác quyết là phải hay không, nhưng nói là tại Việt Nam ai cũng là con cháu của Bác Hồ. Câu trả lời sau chót “chắc chắn ông ta không phải cha ruột của tôi” cũng không đủ tin Nông Đức Mạnh nói bằng sự thật.
Từ câu trả lời trên và thái độ dấu diếm thân thế gia đình, cùng với vai trò lãnh đạo tối cao một cách đi ngang, quần chúng dường như ai nấy đều ngầm nghi vấn Mạnh có phải là con của HCM? Vậy thì làm sao biết Mẹ của Nông Đức Mạnh là bà nào? May mắn thay cho những ai muốn tìm hiểu Nông Đức Mạnh là ai, vì chưa bao giờ Đảng Cộng Sản Việt Nam hay Nông Đức Mạnh tiết lộ với báo chí hay bất cứ ai biết về tên họ cha mẹ của Mạnh một cách rõ ràng, qua tài liệu sau đây.
Trong “Ho Chi Minh”, tác giả William Duiker, trang 575, viết: “In April 2001, the ralatively unknown government official Nong Duc Manh, widely rumored to be the illegitimate son of Ho Chi Minh, was elected general secretary of the VCP (Vietnamese Communist Party)- 14”
Số 14 để người đọc lật ra sau cuốn sách đọc tiếp footnote 14: “Nong Duc Manh has denied these rumors, but he concedes that his mother, a member of the Tay ethnic minority, served as Ho’s servant after the latter’s return to Vietnam during the early 1940s...”
Dịch: Vào tháng 4, 2001, người vô danh tên Nông Đức Mạnh chính thức nhậm chức trong cơ quan chính quyền, dư luận xôn xao bàn tán rộng rãi cho rằng Mạnh là con trai rơi của Hồ Chí Minh, và ông ta đã được chọn làm Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Nông Đức Mạnh phủ nhận những tin đồn này, nhưng ông ta lại công nhận rằng mẹ ông, một thành viên của dân tộc thiểu số Tầy, bà là người phục vụ ông Hồ sau khi ông Hồ trở về Việt Nam vào đầu thập niên 1940.
Nông Đức Mạnh sinh vào đầu thập niên 40. Báo Time phỏng vấn Mạnh vào 2002 và ghi ông ta được 61 tuổi. Như vậy thì ông Mạnh phải ra đời vào cuối 1941 hoặc 1942 . Sau ngày sách của Duiker xuất bản, 2000, và cuộc phỏng vấn của báo Time, trang web “Đảng CSVN” sửa tiểu sử Nông Đức Mạnh lung tung...Vào 2001, chính người viết có lần vào trang này thấy ghi rõ Nông Đức Mạnh con của “nhà cách mạng Nông Văn Lai và bà Hoàng Thị Nhị”, nhưng sau đó thì trống trơn không ghi gì cả . Biết đâu nhân vật Nông Văn Lai và Hoàng Thị Nhị này cũng giống như Lê Văn Tám mà Trần Huy Liệu đã nặn ra để lừa gạt mọi người trong nhiều thập niên qua? Hay Tạ Thị Kiều, một đặc công gái tưởng tượng, mà Xuân Vũ cũng một thời ca ngợi khi ông còn ở miền Bắc?
Rõ ràng câu trả lời của Nông Đức Mạnh trong sách của giáo sư Duiker và báo Time đã phần nào cho người đọc một kết luận về thân thế của ông ta. Mạnh đã trả lời mẹ là người Tầy, dân tộc thiểu số, phục vụ cho HCM trong thời gian Hồ trở về VN vào đầu thập niên 40.
Dư luận so sánh những câu chuyện kể của “Cháu Trưng” và “Chú Thu” khi Hồ ở hang Pac Bo cùng những tài liệu vừa trình bày trên để có những kết luận về cuộc đời tình ái của HCM và kẻ nối gót chính trị là ông Nông Đức Manh. HCM đã từng bị dân gian nêu danh là “bán nước hại dận”. Nay kẻ thừa kế tiếp tục con đường Hồ đã đi qua, tiếp tục làm tay sai cho đàn anh Tàu cộng, bán rẻ linh hồn cho quỷ đỏ, dâng đất nhượng biển, rước hàng chục ngàn dân Tàu cộng vào chiếm cứ miền Bắc và Trung hiện nay...
Bút Sử
Mùa Quốc Hận 30/4/2009
34 năm CS cưỡng chiếm miền Nam
------------ --------- -------




Nhà sàn Bác Hồ: 




 Bài học về sự giản dị, tiết kiệm

    Sau chuyến đi thăm hợp tác xã nông nghiệp đầu tiên của tỉnh Thái Nguyên, trên đường về Bác trầm ngâm suy nghĩ… Bác muốn làm một căn nhà sàn ở bên kia ao để ở và làm việc cho thoáng. Theo ý Bác, mùa hè năm 1958, mọi người trong đội phục vụ bắt tay thi công ngôi nhà này. Công việc thiết kế, tính toán cụ thể được giao cho kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh.


Nha-san.jpg

Trước lúc bắt tay vào việc, Bác căn dặn kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh rất cụ thể, tỷ mỷ. Bác nói: Ngôi nhà sàn này cũng làm giống như những ngôi nhà sàn Bác đã ở chiến khu Việt Bắc. Tầng trên có hai phòng nhỏ, xung quanh cần có hành lang để tiện đi lại. Tận dụng vách ngăn hai phòng làm giá sách nhỏ vừa tiết kiệm vừa tiện sử dụng. Bác dặn đi, dặn lại: Nhà làm bằng gỗ bình thường, loại gỗ làm tà vẹt đường sắt và trường học. Bên dưới xây bệ xi măng thấp, trên có lát ván tạo thành những hàng ghế băng dài cho các cháu thiếu niên vào chơi, thăm Bác có đủ chỗ ngồi.
Sau khi được Bác tham gia góp ý, bản vẽ thiết kế đã nhanh chóng hoàn thành và tổ chức thi công. Sợ việc làm nhà gây ồn ào, bụi bặm ảnh hưởng tới sức khoẻ và công việc của Bác, nên êkíp thực hiện chọn đúng đợt Bác đi công tác mới tổ chức khởi công. Đội thi công gồm ba mươi cán bộ, chiến sĩ công binh khẩn trương được triệu tập. Ai nấy đều thấy rõ vinh dự, tự hào được làm nhà cho Bác Hồ. Mọi người cố gắng hết sức, sao cho nhà Bác vừa đẹp, vừa chắc chắn và phải xong trước ngày Bác đi công tác về. Một đợt thi đua rất tự giác, không cần tổ chức phát động.
Chỉ trong thời gian ngắn ngôi nhà sàn của Bác Hồ đã hoàn thành. Ngôi nhà được thiết kế hai tầng theo kiểu nhà sàn của đồng bào dân tộc dài 10,5 m, rộng 6,2 m. Tầng trên có hai phòng, một phòng Bác dùng làm việc, còn một phòng để nghỉ. Tầng dưới là nơi Bác dùng để làm việc vào mùa hè, họp Bộ Chính trị, nơi tiếp khách thân mật…. Hôm Bác đi công tác về ngôi nhà sàn hai gian thoáng đãng, tầng dưới để thoáng rộng, tầng trên có hai gian, xung quanh là hành lang có mành che đã hoàn thành. Mọi người ai cũng mừng nhưng rất hồi hộp, không biết ngôi nhà có hợp với ý Bác không? Ai cũng mong được nghe ý kiến trực tiếp của Bác. Như đoán được ý nghĩ, Bác tổ chức buổi gặp mặt tất cả êkíp tham gia công việc ngay tại tầng dưới của ngôi nhà sàn vừa mới dựng, có đủ chè nước, bánh kẹo. Khi đó các chiến sĩ gọi vui đây là bữa tiệc “tân gia” mừng nhà mới của Bác.
Không khí của buổi liên hoan bữa ấy đầm ấm vô cùng. Bác giục mọi người ăn kẹo, uống nước. Bác khen:
- Các chú làm như thế là nhanh, tốt, bảo đảm thời gian. Nhưng còn một khuyết điểm, các chú có biết đó là gì không?
Mọi người nhìn nhau lo lắng… Kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh vội đứng dậy đáp:
- Thưa Bác, so với ý Bác dặn thì có tốn kém hơn đôi chút ạ !
- Chú nói đúng. Nước ta còn chưa giàu, dân ta còn khổ, chưa đủ nhà ở, Bác ở thế này là quá tốt rồi, các chú không phải lo cho Bác.
Bài học về sự giản dị, tiết kiệm của Bác hôm ấy làm cho mọi người ai cũng xúc động...
Ngày 18-5-1958, một ngày trước sinh nhật, Bác đã dọn về ở và làm việc tại ngôi nhà sàn. Nhà sàn Bác Hồ đã trở thành món quà sinh nhật vô giá, ý nghĩa thật giản dị, nhưng lớn lao. Ngôi nhà sàn là nơi Bác kính yêu của chúng ta sống và làm việc lâu nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người.
Nhà sàn Bác Hồ không chỉ mang đậm dấu ấn lịch sử mà còn là một công trình kiến trúc thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Hiện nay, Nhà sàn Bác Hồ là một di tích đặc biệt, quan trọng trong quần thể di tích Phủ Chủ tịch. Từ khi Bác qua đời, nơi đây đã đón tiếp hàng chục triệu lượt khách trong và ngoài nước tới tham quan, trong số đó có nhiều đoàn khách cấp cao, là nguyên thủ quốc gia của hàng trăm nước và các tổ chức quốc tế.
  http://phuly.edu.vn/bacho/chuyen53.htm

Khu di tích Phủ Chủ tịch

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm

Nhà sàn nơi Chủ tịch nước Hồ Chí Minh làm việc tại Phủ Chủ tịch
Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch, gọi tắt là Khu di tích Phủ Chủ tịch tại Hà Nội, là nơi sống và làm việc lâu nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh (từ 19 tháng 12 năm 1954 đến 2 tháng 9 năm 1969), được Bộ Văn hóa Thông tin ra Quyết định xếp hạng là Khu di tích ngày 15 tháng 5 năm 1975. Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt.
Khu đất này nguyên là phần đất phía tây bắc của Hoàng thành thuộc Kinh thành Thăng Long xưa. Khi Pháp xâm lược Việt Nam, sau khi chiếm xong miền Bắc đã chọn Hà Nội làm trung tâm đầu não cho toàn bộ Đông DươngPhủ toàn quyền Đông Dương được xây dựng trên mảnh đất này. Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, nơi này được chọn là nơi làm việc của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước, đồng thời là nơi sống và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nơi đây cũng là nơi Hồ Chí Minh đã qua đời.
Tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng gặp nhiều đoàn khách là đại biểu của các chính đảng, đoàn thể, tôn giáo; đại biểu của công nhân, nông dân, trí thức, quân đội; đại biểu của đồng bào các dân tộc thiểu số; đại biểu của người dân Miền Nam Việt Nam và quân nhân thuộc Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam (ở Việt Nam gọi tắt là "đồng bào chiến sĩ miền Nam")
Cũng tại nơi đây, ông còn tiếp những người là đại biểu những người Việt sống ở nước ngoài về thăm Việt Nam; đại biểu của các đội thiếu niên, đoàn thanh niên, hội phụ nữ...
Vì Chủ tịch Hồ Chí Minh rất yêu quý các thiếu niên nhi đồng nên ngày 9 tháng 2 năm 1955, cửa Phủ Chủ tịch đã mở cho các thiếu niên đến vui chơi, từ đó các thiếu nhi có nhiều dịp được vào đây thăm ông. Ông còn tổ chức nhiều triển lãm tranh thiếu nhi tại đây.
Nhà họp Bộ Chính trị tại Phủ Chủ tịch.
Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, khu Phủ Chủ tịch trở thành khu di tích lịch sử. Nhiều khách du lịch tại Việt Nam và khắp thế giới đến thăm khu di tích này.
Khi Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh được thành lập ngày 12 tháng 9 năm 1977, khu này nằm dưới sự quản lý của Bảo tàng Hồ Chí Minh. Ngày 6 tháng 11 năm 1992, Khu di tích Phủ Chủ tịch được tách ra khỏi Bảo tàng Hồ Chí Minh và trực thuộc Bộ Văn hóa Thông tin.
Tổng thể khu di tích rộng hơn 14 hécta, trong đó diện tích được xếp hạng là 22.000 m², bao gồm 16 công trình, công trình đã tồn tại lâu nhất là hơn 100 năm và gần nhất là hơn 40 năm. Một số công trình có giá trị lớn trong khu di tích:
  • "Nhà sàn Bác Hồ": phục chế theo nhà sàn, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở từ ngày 18 tháng 5 năm 1958 đến ngày 17 tháng 8 năm 1969. Ngôi nhà sàn này được dựng lại theo nguyên mẫu năm 1969, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Năm 1969, Bảo tàng Hồ Chí Minh đã mua gỗ về làm một ngôi nhà sàn đồng dạng dựng trên nền cũ tại Hà Nội, còn nhà sàn gốc được cất giữ bảo quản trong kho [1] .
  • Nhà 54, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở và làm việc từ ngày 19 tháng 12 năm 1954 đến ngày 18 tháng 5 năm 1958. Sau khi chuyển về sống ở Nhà sàn, hàng ngày ông vẫn đến đây ăn cơm và sử dụng các phương tiện vệ sinh cá nhân.
  • Phòng họp Bộ Chính trị, nơi quyết định cuộc Tấn công và nổi dậy Xuân 1968.
  • Nhà 67, nơi họp Bộ Chính trị, cũng là nơi Hồ Chí Minh dưỡng bệnh và qua đời.
  • Giàn hoa Phủ Chủ tịch, nơi Hồ Chí Minh thường tiếp khách.
  • Nhà bếp A và nhà bếp B.
  • Nhà Thủ tướng.
  • Nhà ký sắc lệnh.
  • Đường Xoài: con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thường đi bách bộ sau giờ làm việc và tập thể dục buổi sáng.
  • "Đường mòn Bác Hồ": con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luyện tập với mong muốn có đủ sức vào thăm người dân miền Nam Việt Nam trong những năm cuối đời.
  • "Ao cá Bác Hồ" với diện tích 3.320 m², sâu 3 m, có nhiều loài cá được thả tại đây.
Ngoài ra, khu vườn tại đây có 161 loài thực vật thuộc 54 họ thực vật, trong đó có 58 loài có nguồn gốc nước ngoài.


 

No comments:

Post a Comment