Bình luận về Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam

Bình luận về Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam

Friday 22 June 2012

138 * WIKIPEDIA *TUYÊN NGÔN * TUẦN LỄ VÀNG

Ngôi nhà lịch sử 48 Hàng Ngang: Nơi Bác viết Tuyên ngôn độc lập
Đại Đoàn Kết- 37 tháng trướcNgày nay, tòa nhà 4 tầng 48 Hàng Ngang - Hà Nội đã được bảo tồn, gìn giữ và xếp hạng di tích lịch sử cách mạng. Tại tầng 2 ngôi nhà này, Tháng 8 năm 1945, sau khi Cách mạng giành thắng lợi, Bác Hồ đã đến ở và làm việc. Trên chiếc bàn kê ở góc phòng có đặt chiếc máy chữ Bác thường dùng đem theo từ chiến khu về, đây là chiếc máy chữ Người đã dùng để viết bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Giống như nhiều ngôi nhà khác ở khu phố cổ, ngôi nhà 48 Hàng Ngang chạy dài, sâu hun hút theo kiểu “nhà ống”. chủ nhà cũng là chủ cửa hàng tơ lụa của gia đình tư sản nhiều đời, ông Trịnh Văn Bô và bà Hoàng Thị Minh Hồ ngày một trở nên giàu có. Nhưng cũng như nhiều người dân Việt Nam, ông bà rất giàu lòng yêu nước. Trước Cách mạng, ai giúp đỡ Việt Minh là tính mạng coi như “gươm kề cổ, súng kề tai”. Nhưng ông bà Trịnh Văn Bô đã không tiếc công sức, tiền của, vật chất giúp đỡ cách mạng, kể cả bị hy sinh, bắt bớ tù đày...
Khi ông Hoàng Hữu Nhân thay mặt Việt Minh ướm hỏi một số tiền cần kíp, bà Minh Hồ đã đưa ngay 2 vạn 6 ngàn bạc Đông Dương (lúc này, 18 đồng 5 hào là mua được tạ gạo). Lần khác, đồng chí Tâm Kính cần tiền nên bà Minh Hồ trao 1 vạn rưỡi đồng. Trước ngày Tổng khởi nghĩa, đồng chí Khuất Duy Tiến đến đặt vấn đề: “Chị Bô giúp cho... Lúc nước sôi lửa bỏng thế này chỉ có chị mới cứu vãn nổi... Đoàn thể cần một khoản 4 vạn đồng, chỉ trong 6 tiếng đồng hồ”. Thế là bà Minh Hồ phải bán gấp mấy tấn tơ lụa loại hảo hạng để đủ tiền cho cách mạng. Sau ngày cướp chính quyền ở Bắc Bộ Phủ, các đồng chí ở chiến khu về nhà vợ chồng ông Trịnh Văn Bô và Hoàng thị Minh Hồ khi thì 5 người, khi mười người có khi vài chục người. Bà Minh Hồ lấy vải trong kho ra hàng chục cây trao cho ông Trần Đăng Ninh để may quần áo cho cán bộ. Trong tủ còn 20 bộ comple thì bà bớt lại 2 bộ cho chồng còn lại tặng cách mạng.
Một hôm ông Nguyễn Lương Bằng đề nghị bà Hoàng Thị Minh Hồ: “Gia đình anh chị là nơi bảo đảm an toàn nhất, là chỗ dựa mọi mặt của đoàn thể. Xin cho chúng tôi được dời cơ quan thượng cấp về đây”. Và ông Nguyễn Lương Bằng xin gia đình ông Bô, bà Hồ dành trọn tầng hai cho thượng cấp. Cổng sau phía 35 Hàng Cân được mở để tiện cho công việc của cán bộ.
Mấy ngày sau thì gia đình ông Bô, bà Hồ đón “ông cụ dưới quê lên chơi”, tức Bác Hồ từ Tân Trào về. Bà Hoàng Thị Minh Hồ có kể lại cho nhiều nhà báo, nhà nghiên cứu rằng: “Tôi nhớ lần đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nhà tôi. Người mặc rất giản dị, áo nâu, quần soóc nâu, đội mũ dạ, đi dép cao su con hổ trắng, tay cầm can. Khi Người bước vào nhà, vợ chồng tôi ra chào, chúng tôi đưa Người lên gác 3, nơi tôi đã dọn sẵn một buồng đủ tiện nghi để Người ở. Sau đó, Người lại xuống tầng 2 ở luôn cùng các đồng chí mình và làm việc tại đó”. Khi ấy, Bác bị ốm, người gầy và rất yếu. Bà Hoàng Thị Minh Hồ thường tự tay nấu cháo cho Bác.
Trên căn phòng ở tầng 2, số 48 Hàng Ngang, rộng chừng 60m2 chính giữa phòng là một chiếc bàn chữ nhật có kích thước lớn bằng gỗ màu cánh gián sẫm, 8 chiếc ghế tựa mềm bọc nỉ xanh phủ trắng. Tại đây, Bác đã họp với các đồng chí trong Thường vụ Trung ương để chuẩn bị cho việc ra mắt Chính phủ lâm thời trước quốc dân vào ngày 02/9/1945. Trên bàn là chiếc máy chữ mà Bác Hồ đã dùng từ chiến khu Việt Bắc đưa về. Đây là chiếc máy chữ mà Bác dùng để đánh các chỉ thị của Đảng và soạn thảo Tuyên ngôn độc lập.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở và làm việc tại ngôi nhà này từ ngày 25 tháng 8 đến đầu tháng 9 năm 1945. Tại đây Người cùng Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định nhiều chủ trương quan trọng về đối nội, đối ngoại trong tình hình mới; về thể chế và thành phần của Chính phủ mới, về tổ chức ngày lễ Độc lập... Cũng chính tại ngôi nhà lịch sử này, ngày 30/8/1945, Bác Hồ đã tiếp một vị khách đặc biệt, đó là Thiếu tá Pát- ti (Archimedes LA Patti), một sĩ quan tình báo, chỉ huy đội công tác thuộc cơ quan phục vụ chiến lược Mỹ OSS. Bác đã cho ông Pát- ti xem trước bản Tuyên ngôn độc lập và trân trọng mời ông ngày 2/9 tới dự lễ Quốc khánh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Ngày 2/9/1945, trước lễ đài, bà Hoàng Thị Minh Hồ mới ngỡ ngàng và xúc động tột độ: “Ông cụ ở dưới quê lên chơi” chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh...
Ngày 16/9/1945, ông Võ Nguyên Giáp dặn: “Bác Hồ dặn tôi: “Chú có gặp cô Minh Hồ, Bác đề nghị Tuần lễ Vàng này cô cố gắng làm gương sáng cho chị em Hà Nội Thủ đô của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Thế rồi, bà Minh Hồ bàn với chồng đang đêm đào lên 117 lạng vàng hôm sau đến tặng cho cách mạng trong tiếng trống tưng bừng... Sau này, tính tổng cộng, gia đình ông Trịnh Văn Bô và bà Hoàng Thị Minh Hồ đã ủng hộ Cách mạng trên 5000 lạng vàng...
Với những đóng góp nói trên, Nhà nước đã trao tặng cho hai vợ chồng ông Trịnh Văn Bô và bà Hoàng Thị Minh Hồ mỗi người một Huân chương Độc lập Hạng Nhất.
Quốc Việt
 http://www.baomoi.com/Ngoi-nha-lich-su-48-Hang-Ngang-Noi-Bac-viet-Tuyen-ngon-doc-lap/121/3154925.epi


Trịnh Văn Bô (1914-1988) là một doanh nhân Việt Nam giữa thế kỷ 20. Ông là một nhà tư sản theo chủ nghĩa dân tộc, từng ủng hộ cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam 5.147 lượng vàng, tương đương số tiền gần gấp đôi ngân khố chính phủ bấy giờ. Hiệu buôn tơ lụa Phúc Lợi tại số 48 phố Hàng Ngang quận Hoàn Kiếm Hà Nội, trước Cách mạng tháng Tám, cũng là nhà riêng của ông, là nơi Hồ Chí Minh ở dịp cuối tháng 8 đầu tháng 9 năm 1945, và là nơi ra đời bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

  • 1 Thân thế
  • 2 Sự nghiệp kinh doanh
  • 3 Cống hiến cho nền độc lập
  • 4 Đời tư
  • 5 Vinh danh
  • 6 Chú thích
  • 7 Liên kết ngoài
  • Thân thếÔng sinh năm 1914, nguyên quán tại làng Đồng Hoàng, xã Đồng Mai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay là phường Đồng Mai, quận Hà Đông, Hà Nội). Ông là người con trai thứ trong gia đình 3 anh em. Người anh lớn tên là Trịnh Văn Bính, người em gái tên là Trịnh Thị Thục.[1]Theo gia phả Trịnh tộc thì ông thuộc dòng dõi của Khánh quận công Trịnh Kiều - con thứ 4 của An Đô Vương Trịnh Cương[2][3]. Thân sinh ông là một doanh nhân Việt Nam đầu thế kỷ 20, cụ Trịnh Phúc Lợi. Thân mẫu ông họ Phan, người gốc Hoa, về sau nối nghiệp chồng quản lý thành công hiệu buôn Phúc Lợi. Cậu ruột ông cũng là một doanh nhân nổi tiếng đầu thế kỷ 20 với hiệu buôn Cự Hưng[4][1].
    Thân phụ ông không chỉ là một doanh nhân thành đạt, mà còn nổi tiếng đào tạo ra lớp doanh nhân kế thừa. Trong số học trò của cụ Phúc Lợi, ngoài 2 người con ruột là Trịnh Văn Bô (sau kế thừa hiệu Phúc Lợi) và Trịnh Thị Thục (hiệu Phúc Đồng), còn có Nguyễn Đức Mậu (hiệu Phát Đạt), Mai Bá Lân (hiệu Lợi Quyền), Vương Xuân Tọa (hiệu Lợi Hòa, Sài Gòn)... đều trở thành những doanh nhân thành đạt tại VIệt Nam giữa thế kỷ 20.[1]

    Sự nghiệp kinh doanh

    Do điều kiện gia đình, ông được học hành tử tế, sử dụng được tiếng Anhtiếng Pháp. Sau khi tốt nghiệp Tú tài, thay vì sang Pháp học như người anh trai[5], ông lại được thân phụ giữ lại để đào tạo thành người kế thừa sản nghiệp. Bấy giờ, hiệu buôn Phúc Thịnh ở số 7 Hàng Ngang và do thân mẫu của ông làm quản lý. Sau khi lập gia đình năm 1932, ông được cha mẹ cho ở riêng tại nhà số 48 Hàng Ngang và kế thừa tên hiệu Phúc Lợi[6].
    Với những sản nghiệp ban đầu, hai vợ chồng ông đã kế thừa và nhanh chóng phát triển hiệu buôn Phúc Lợi, trở thành một nhà tư sản lớn thời bấy giờ. Hiệu buôn Phúc Lợi sản xuất và buôn bán tơ lụa sang cả Lào, Campuchia, Thái Lan, thậm chí có giao dịch buôn bán với thương nhân Pháp, Anh, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Ấn Độ, Trung QuốcNhật Bản[7].

    Cống hiến cho nền độc lập

    Được sự vận động của 2 cán bộ Việt Minh là hai anh em Tạ Văn Lưu và Tạ Văn Thực, ngày 14 tháng 11 năm 1944, hai vợ chồng bà cùng người con trai cả chính thức tham gia Việt Minh[8].
    Đầu năm 1945, ông bà đã quyết định ủng hộ 1 vạn đồng Đông Dương, tương đương 25 cây vàng, cho Mặt trận Việt Minh, khởi đầu sự nghiệp đóng góp tài chính của gia đình ông bà với Mặt trận Việt Minh.
    Sau lần đó, gia đình ông bà còn ủng hộ nhiều lần nữa. Tính đến trước Cách mạng tháng 8, gia đình họ Trịnh đã ủng hộ 8,5 vạn đồng Đông Dương, tương đương 212,5 cây vàng theo thời giá bấy giờ.
    Sau Cách mạng tháng 8, ông bà được ông Khuất Duy Tiến tiến cử vào Ban vận động Quỹ Độc lập. Gia đình ông bà đã tiếp tục ủng hộ Quỹ 20 vạn đồng, tương đương 500 cây vàng. Ngoài ra, còn vận động thêm được hơn 1 triệu đồng Đông Dương cho Quỹ. Trong Tuần lễ Vàng, gia đình ông bà đã đóng góp 117 cây vàng và vận động ủng hộ thêm trên 1.000 cây vàng nữa. Bấy giờ, toàn bộ ngân khố của Chính phủ Cách mạng Lâm thời chỉ có 1.200.000 đồng Đông Dương, đa phần không thể lưu thông. Các tài liệu chính thức ghi nhận, chỉ riêng gia đình ông bà đã ủng hộ thêm cho chính phủ 5.147 lượng vàng, tương đương với 2.000.000 đồng Đông Dương (theo thời giá lúc đó).
    Khi chính phủ lâm thời về Hà Nội, ngôi nhà 48 Hàng Ngang của ông bà được dùng làm nơi làm việc của các lãnh đạo Việt Minh. Nơi đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng tiếp đã các sĩ quan OSS như Archimedes PattiAllison Thomas, cũng như viết hoàn chỉnh bàn Tuyên ngôn Độc lập.
    Các y phục của các lãnh đạo Việt Minh trong ngày lễ Độc lập, hầu hết do gia đình ông bà cung cấp. Thậm chí các ông Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đã mặc y phục của ông Bô trong ngày lễ Độc lập. Riêng chiếc áo cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, vải may áo do hiệu buôn Phúc Lợi cung cấp.[9]
    Sau khi Pháp tái chiếm Đông Dương, ông tham gia công tác trong chính phủ kháng chiến tại Việt Bắc trong khi gia đình tản cư lên Cao Bằng. Mãi đến năm 1955, gia đình ông mới trở về Hà Nội. Ông được phân công giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Hà Nội cho đến ngày nghỉ hưu.
    Ông qua đời năm 1988 tại Hà Nội.

    Đời tư

    Năm 1932, Ông lập gia đình với bà Hoàng Thị Minh Hồ, ái nữ của ông Hoàng Đạo Phương. Trong sự nghiệp kinh doanh của ông, có công sức không ít của bà. Ông bà có với nhau 7 người con.[7]
    Bà Trịnh Văn Bô là một trong những đảng viên đầu tiên của Đảng Xã hội Việt Nam và cũng là một trong những người đầu thời kỳ thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Bà làm công tác phụ nữ đến năm 1974 thì nghỉ hưu. [7]
    Chị ruột của bà Hồ là Hoàng Thị Minh Hảo lấy ông Trịnh Văn Bính, anh ruột của ông Bô. Người chị lớn của bà Hồ lấy Phó bảng Đặng Văn Hướng, cũng là một nhân sĩ trí thức thời bấy giờ.
    Năm 1954, ông bà cho Thiếu tướng Hoàng Văn Thái mượn căn nhà số 34 Hoàng Diệu với thời hạn 2 năm. Hơn 30 năm sau, sau khi tướng Hoàng Văn Thái qua đời, ông bà có yêu cầu trả lại nhà để làm nơi cư trú cho gia đình, bấy giờ gần 40 người. Dù có xác nhận của các lãnh đạo cấp cao như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, và gia đình tướng Hoàng Văn Thái cũng đã chuyển chỗ ở, nhưng mãi sau khi ông qua đời năm 1988, căn nhà vẫn chưa được hoàn trả cho gia đình ông. [3]
    Trong những năm sau đó, bà Trịnh Văn Bô nhiều lần kiến nghị đến các cấp khác nhau, thậm chí có những quyết định, chỉ đạo của các lãnh đạo cấp cao đương nhiệm như Đỗ Mười, Lê Quang Đạo, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, nhưng sự việc vẫn không được giải quyết[3]. Mãi đến năm 2003, bà mới trở về được ngôi nhà mà gia đình bà đã cho mượn gần 50 năm trước.[10]

    Vinh danh

    Triết lý kinh doanh của Trịnh Văn Bô là: "Buôn bán 10 đồng thì giữ lại 7,còn lại giúp đỡ người nghèo và làm việc phúc đức. Khi cần nuôi nền độc lập thì cống hiến tất cả".
    Sau Tuần lễ Vàng, ông bà được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng một cái ngà, có gắn thêm một đàn voi con, to bằng ngón chân cái, vì đã giúp đỡ chính phủ. Tuy nhiên, khi chiến sự bùng nổ thì tăng phẩm bị thất lạc.[7]
    Sinh thời, 2 vợ chồng ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất[3]. Năm 2006, ông được truy tặng danh hiệu Doanh nhân Việt Nam tiêu biểu cùng với 3 doanh nhân nổi tiếng khác là Lương Văn Can, Bạch Thái BưởiNguyễn Sơn Hà.[11] Ngôi nhà 48 Hàng Ngang cũng được xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia Việt Nam.

    Chú thích

    1. ^ a b c Mai Thế Trạch, "Phố Hàng Ngang ngày ấy". 2003.
    2. ^ Theo Gia phả Trịnh tộc.
    3. ^ a b c d Chuyện về một nhân chứng lịch sử
    4. ^ Ông Cự Hưng tuy là em của cụ bà Phúc Lợi nhưng vì là con trai lớn trong gia đình nên còn được gọi là ông Cả.
    5. ^ Ông Bính là một trong những người Việt Nam đầu tiên và hiếm hoi thi đậu vào Trường Cao đẳng Thương mại Pháp quốc (Hautes Études Commerciales - HEC), một trường nổi tiếng với tiêu chuẩn khắc khe thời bấy giờ. Sau khi về nước, ông được bổ nhiệm Phó giám đốc Hải quan Hà Nội (bấy giờ dân chúng quen gọi là “Nhà Đoan” [Services des Douanes]), nên ông còn được gọi là "ông Phó Đoan". Sau năm 1945, ông tham gia phái đoàn Phạm Văn Đồng đi dự Hội nghị Fontainebleau, từng đảm nhiệm chức vụ Thứ trưởng Bộ Tài chính cho đến khi nghỉ hưu.
    6. ^ Bà Trịnh Thị Thục sau khi lấy chồng cũng được cho ở riêng tại nhà số 17 Hàng Ngang, lập hiệu Phúc Đồng. Sau hiệu Phúc Đồng chuyển sang số 18 Hàng Ngang.
    7. ^ a b c d Vẻ đẹp đàn bà Hà Nội xưa
    8. ^ Chuyện chưa kể khi Bác viết Tuyên ngôn độc lập
    9. WIKIPEDIA



    Xảo Thuật về Hình Ảnh HCM ngày 2/9/1945

    Nói về tài trí trá thì không ai hơn những người công sản Việt Nam mà dẫn đầu là Hồ Chí Minh. Trước ngày lên khán đài đọc diễn văn, 2/9/1945, Hồ điều khiển đàn em làm những màn xuống đường “hoan hô phái bộ đồng minh OSS”, nịnh hót Mỹ rất ngoạn mục, nhưng rồi cũng thất bại. Còn trong tâm trạng thấp thỏm lo sợ Mỹ không ra mặt công nhận “chính phủ” vừa ăn cướp và tập đoàn vẫn cố đấm ăn xôi. Tâm trạng thể hiện qua hình thức. Chúng ta hãy thử nhận xét một vài hành động của Hồ trước ngày xuất hiện tại Ba Đình và hình ảnh trên phim được cộng sản quay trong ngày này.
    Cái dỏm đáng kể là Hồ Chí Minh đã dùng những câu trong "Tuyên Ngôn Độc Lập" của Hoa Kỳ, 1776, và "Tuyên Ngôn về Nhân Quyền và Dân Quyền" của Pháp, 1791. Có người nhận xét rằng Hồ Chí Minh đã không đủ khả năng viết riêng cho mình một bài diễn văn được gọi là "tuyên ngôn độc lập" đọc trước đám đông, nhất là ngày ông tuyên bố khai mở một giai đoạn mới cho dân tộc Việt Nam. Ngày 29/8/1945, Hồ Chí Minh mời Archimedes Patti, đại diện cơ quan tình báo Hoa Kỳ OSS, đến văn phòng để nhờ xem lại bản văn ông sắp đọc tại quãng trường Ba Đình. Patti viết trong "Why Vietnam" (trang 223):

    I stopped him and turned to Ho in amazement and asked if he really intended to use it in his declaration. I don't know why it nettled me - perhaps a feeling of proprietary right, or something equally inane. Nonetheless, I asked. Ho sat back in his chair, his palms together with fingertips touching his lips ever so lightly, as though meditating. Then with a gentle smile he asked softly, "Should I not use it?" I felt sheepish and embarrassed. Of course, I answered, why should he not? - Tôi ngưng ông kia và quay sang Hồ trong sự kinh ngạc và hỏi nếu ông ta cố ý dùng nó (Tuyên Ngôn Hoa Kỳ) trong tuyên ngôn của ông. Tôi không hiểu tại sao chuyện này kích thích tôi - có thể là một cảm giác về quyền sở hữu, hoặc một cái gì đó đồng nghĩa với sự ngu dốt. Tuy vậy, tôi đã hỏi rồi. Hồ ngồi ngửa ra trên ghế, hai lòng bàn tay bám vào nhau với những ngón tay sờ nhẹ qua lại trên môi, như là đang thiền. Tiếp theo, với nụ cười nhẹ ông hỏi, "Có thể tôi không nên dùng nó?" Tôi cảm thấy hơi khó chịu và xấu hổ. Dĩ nhiên, tôi trả lời, sao ông ta không dùng được?

    Những lời của ông Patti ghi trên, có lẽ người đọc cảm nhận tác giả nghĩ gì về Hồ Chí Minh. Có phải Hồ là một lãnh tụ ngu dốt, và Patti đã phải cảm thấy xấu hổ cho ông Hồ. Theo luật pháp thì ông Hồ không có tội gì cả khi cắp văn của người khác, nhưng ông là một lãnh tụ nên sự nhục nhã càng ở mức độ cao hơn. Ông Charles Fenn, sĩ quan tình báo OSS, cũng đã cho rằng không công bằng, vô lý (unjustified) khi ông Hồ lấy nguyên văn của Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ.

    Đó là nhận xét về hình thức; tuy nhiên, khi xét về mặt chính trị thì sao? Hồ Chí Minh đã dọn đường để mong Hoa Kỳ công nhận sau khi cướp chính quyền. Việc làm này xảy ra từ 3/1945 khi Hồ gặp Charles Fenn tại Côn Minh. Hồ Chí Minh đã đoán được tình hình thế giới, biết đồng minh sẽ thắng trận, biết chỉ còn Hoa Kỳ là một quốc gia sáng giá, giàu mạnh, không còn ai ngoài Hoa Kỳ là nước duy nhất Hồ dựa vào lợi dụng để thực hiện mục đích nhuộm đỏ Việt Nam. Hồ Chí Minh chỉ cần chính phủ Mỹ ủng hộ mà thôi, nghĩa là đứng ra công nhận khi ông ra mắt trước dân chúng. Ngay lúc này Hồ Chí Minh đã từ chối không nhận mình là cộng sản trước mặt ông Fenn, mặc dù Fenn đã biết Hồ là ai.

    Khi hỏi cần gì thì Hồ Chí Minh trả lời trước nhất là cần gặp tướng Claire Chennault của Mỹ, tư lệnh Đông Dương. Fenn đã tạo cơ hội cho Hồ gặp Chennault. Buổi gặp này không gì hơn là Hồ xin Chennault một tấm hình và yêu cầu ông tướng ký tên trên đó. Hồ chạy bộ từ Côn Minh về rừng Pac Bo và treo ngay tấm hình trên thân cây kế bên lá cờ đỏ sao vàng. Hồ được Mỹ mướn làm tình báo lặt vặt chạy qua lại giữa ranh giới Tàu Việt. Nhóm Việt Minh mỗi sáng phải chào cờ và "quốc tế ca" trong khung cảnh hai ý thức, cộng sản và tự do, lộn xộn này. Hồ làm cho mọi người nghĩ Mỹ là "bạn" của Việt Minh. Lúc này Việt Minh là những thanh niên được thu nhận, đa phần ít học, làm sao biết ý thức hệ cộng sản là gì. Họ được OSS huấn luyện cách thảy lựu đạn, cách vật bắt. Một ít súng colt 45 Hồ Chí Minh xin Mỹ chỉ phát cho những nhân vật quan trọng mà thôi.

    Không khó hiểu khi dân chúng Hà Nội quý mến người Mỹ trong lúc này. Họ đến Việt Nam sau khi thắng thế chiến. Việt Nam lại trong giai đoạn chết đói trầm trọng. Hồ Chí Minh xuất hiện như một kẻ xa lạ đối với dân chúng, ngay cả những người Pháp chưa ra khỏi Việt Nam phải nhìn qua ống dòm để "điều tra" thêm, còn chính phủ của các nước như Hoa Kỳ, Anh, Pháp thì họ đã biết Hồ Chí Minh rất rõ ràng.

    Trong đám đông ngày 2/9/1945, chỉ có một nhóm nhỏ người Mỹ thuộc OSS được coi như có bộ mặt đại diện cho chính phủ Hoa Kỳ, nhưng họ được lệnh đến dự với tư cách quan sát mà thôi. Ông Grelecki, sĩ quan OSS, kể lại trong một đoạn phim tài liệu: máy quay phim cứ chăm chú vào bốn người Mỹ, trong đó có ông. Có những biểu ngữ nửa tiếng Anh, nửa tiếng Việt không dấu, nổi bật nhất là "The Doc Lap" thay vì "Ngày Độc Lập." Kế bên biểu ngữ có một cán bộ cầm cờ sao khá to, và ống kính cứ quay đi quay lại hình ảnh này. Vậy trên khán đài ngay chỗ Hồ Chí Minh đọc có treo cờ đỏ hay không mà không thấy người quay phim chú ý?
    Trong toàn bộ phim tài liệu người xem chỉ thấy một ngôi sao thật to làm bằng vải dán ngay phần dưới khán đài. Vấn đề hư hư thật thật ở đây làm nhiều người hoang mang, thắc mắc, và nó chỉ có thể được giải nghĩa rõ ràng khi có nhân chứng sống kể lại, phải là người đã chứng kiến và theo dõi từng chi tiết trong ngày này. Phần sau đây xin phân tách vài hình ảnh và so sánh những thay đổi sau đó, cũng như nhận định tại sao tập đoàn Hồ Chí Minh phải làm như vậy.

    Vì có những xảo thuật trong hình nên người xem có thể nghi ngờ những gì đã xảy ra tại hiện trường ngày 2/9/1945. Những kỹ thuật sửa đổi này tinh vi đến độ nào tuỳ người nhận xét, nhưng những hình ảnh này đã được sử dụng, ngay cả các nhân vật làm phim người Mỹ thuộc loại "History Channel" - "Ho Chi Minh's Biography" do Don Cambou và Gary Tarpinian thực hiện.

    Video có đưa ra hình ảnh tổng quát trên khán đài khi Hồ Chí Minh đứng trước micro. Phía sau có một cái trụ, có lẽ là trụ cờ. Nếu có treo cờ, tại sao người quay phim lại bỏ qua? Giây phút được xem như quan trọng hùng hồn, người lãnh tụ đọc "tuyên ngôn độc lập" với lá cờ đại diện cho quốc gia mình bay phất phới thì còn gì bằng? Nhưng không, người ta chỉ thấy người quay phim chú ý lá cờ sao ở dưới đám đông kế bên biểu ngữ "The Doc Lap" được chiếu nhiều lần.

    Phải ghi nhận rằng, vào ngày 26 và 30/8/1945 có hai buổi xuống đường tại Hà Nội, một hoan hô tâng bốc nhân viên tình báo Mỹ để hy vọng ông Archimedes Patti, đaị diện OSS, vận động cho Hoa Kỳ công nhận, và buổi xuống đường lên án Pháp. Thử hỏi: Nếu Hồ Chí Minh muốn Mỹ công nhận thì có dám treo cờ đỏ sao vàng phất phới trên khán đài một cách chính thức? Và nếu Mỹ công nhận thì họ phải đứng cùng với Hồ Chí Minh và tập đoàn, mà ngay lúc này thế giới tự do đang đương đầu với làn sóng đỏ của Stalin ở Âu Châu và có thể Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh tại Á Châu? Hơn nữa, vào 17/3/1945, Charles Fenn gặp Hồ tại Côn Minh đã hỏi ông ta có phải là cộng sản không thì ông Hồ đã chối quanh và trả lời rằng ai chống Pháp cũng đều bị Pháp chụp mũ là cộng sản. Nếu Hồ cho rằng tình báo Mỹ không biết Hồ Chí Minh là quốc tế cộng sản Nguyễn Ái Quốc, thuộc nhóm quốc tế cộng sản (comintern) mặc dù bị giải tán 1943, thì ông ta đã quá khinh thường đối thủ. Một hoạt đầu chính trị như Hồ Chí Minh rất bén nhạy trong phương cách "cắc kè" để đạt mục đích, ông không bỏ qua bất cứ một cơ hội nào, cho dù xem ra tồi bại hay nhỏ nhặt như trò con nít.
    Hình 1, kế bên, được xem trong các phim tài liệu trình chiếu công khai trước nay. Vì kỹ thuật phim ảnh thời đó còn kém nên đường nét không rõ, nhưng vẫn là trung thực.

    Cũng cùng vị trí, cùng khung cảnh, nhưng trong hình 2 lại có thêm lá cờ sao bay phất phới. Cảnh mây bay bị tan biến, micro lại bám sát vào miệng Hồ và trông rất không tự nhiên. Trong video "Ho Chi Minh's Biography" dùng hai hình ảnh mâu thuẫn này, và có lẽ họ cũng không biết họ là nạn nhân của một tập đoàn gian xảo, mà ngay cả người Việt Nam chúng ta còn chưa nhận ra hết.

    Chưa hết, cộng sản còn tạo ra thêm một hình ảnh ông Hồ với nét có vẽ "lãnh tụ" hơn trước. Trong chế độ kiềm kẹp độc tài, ai có quyền làm những chuyện này, nếu không do lệnh từ các ban tuyên truyền của Đảng. Chỉ có bộ quần áo mặc trong người của Hồ Chí Minh là giống nhau trong 3 hình. Cái micro màu bạc trên hình thứ 3 lại tròn, không vuông và đen như hai hình trước. Dưới bục lại có thêm lá cờ ngôi sao. Cờ không có nền đỏ sao vàng để cho người ta có cảm tưởng đó là hình ảnh của năm 1945 khi chưa có phim màu. Hình 3 này được trình bày nhiều trang trên Google Images, dưới ghi Hồ Chí Minh tại Ba Đình ngày 2/9/1945, và chắc chắn được phổ biến trên nhiều phương tiện khác.
    Một số người khi đã trở thành đảng viên ly khai hay về hưu thì mới can đảm nói và viết ra sự thật. Có quá nhiều điều gian dối đang phủ lên mái nhà Việt Nam, nơi tuổi trẻ bị in vào đầu óc những lịch sử xuyên tạc, ngụy tạo. Ngày đó 19/8/1495, nhạc sĩ Tô Hải vừa cầm cờ vàng ba sọc đỏ (Quẻ Ly) rồi chuyển sang cầm cờ đỏ sao vàng, và ông cũng không cảm thấy có gì khác lạ. Với không khí náo nức, Việt Minh hô la "ủng hộ Việt Minh", tuổi 20 của ông chưa ý thức được đúng sai nên ùa theo làn sóng, và đã không ít người như thế.

    Nay ở vào đầu thế kỷ 21, với ý thức tự do dân chủ cao hơn, với khoa học thông tin rộng rãi, giới trẻ sử dụng internet có thể tìm hiểu lịch sử trung thực qua nhiều hình thức - bài viết trên các diễn đàn, radio, sách, báo, audio, tiếng nói bày tỏ quan điểm, v.v..Thế hệ thanh niên có kiến thức là động lực đầu tiên có thể phá tan bức màn đỏ che kín những thông tin mà toàn dân cần biết, nhất là cần phân biệt sự thật và những điều ngụy tạo, và có nên tiếp tục chịu sự cai trị của Đảng và Nhà Nước với chủ trương lừa dối?
    Bút Sử
    8/2009




     



    Ngày tham gia: 19 11 2008
    Bài gởi: 5479

    Bài gởiGởi bởi: Bảy 12 17, 2011 7:41 am    Tiêu đề:

    Tội Bán Nước của HCM
    Bàn về lá thư Hồ Chí Minh viết gửi bà Sô Dít, một phụ nữ thân cộng người Pháp lúc đó đang nắm một vai trò trong chính phủ, sau khi thất bại tại hội nghị Fontainebleau vào tháng 9 năm 1946. Thư này được đăng trong cuốn "Hồ Chí Minh - Một Nửa Nhân Loại" tác giả Trần Khuê và Nguyễn Thị Thanh Xuân. Nội dung lá thư ông Hồ cầu khẩn bà Sô Dít hãy giúp ông bằng mọi cách để chính phủ Pháp công nhận "Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa" được nằm trong liên hiệp Pháp. Đây được coi như một cố gắng gượng gạo cuối cùng của Hồ Chí Minh, mặc dù biết phần chắc chính phủ Pháp đã thuộc về phe hữu, tức chống cộng, ra mặt không ủng hộ như trước, và tương lai rất gần sự xung đột giữa hai bên trở nên nặng nề hơn.

    Hồ Chí Minh viết: " Theo như tạm ước ký ngày 15-9 vừa qua giữa chính phủ Pháp và chính phủ Việt Nam thì hai bên phải đình chỉ mọi cuộc xung đột. Về phần tôi, tôi sẽ hết sức mình để cho điều khoản này cũng như các điều khoản khác được thi hành một cách trung thực...Tôi mong rằng về phía những người bạn Pháp của tôi, họ cũng sẽ hành động như vậy...Chỉ cần nước Pháp công nhận nền độc lập của chúng tôi thì tức khắc nước Pháp sẽ tranh thủ được trái tim và tình cảm của tất cả người Việt Nam. Và chúng ta sẽ cùng nhau xây dựng khối liên hiệp Pháp, một khối liên hiệp tự do, vững chắc và anh em...Tán thành tinh thần bốn bể là anh em, cho nên tôi yêu mến..." Lá thư đề ngày 22 tháng 9 năm 1946, tức chỉ 7 ngày sau khi tạm ước được ký.

    Trên thực tế thì tạm ước Modus Vivendi ký ngày 14/9/1946 rạng ngày 15/9/1946 giữa Hồ Chí Minh và bộ trưởng thuộc địa Marius Moutet không phải giữa chính phủ Pháp và chính phủ Hồ Chí Minh, bởi vì Moutet chỉ là một viên chức của Bộ Thuộc Địa, không phải đại diện của quốc hội Pháp. Hồ Chí Minh trong 4 tháng ở bên Pháp (từ 2/6 đến 18/9/1946) đã vận động ngoại giao với các thành phần, nhất là các phe nhóm thuộc các đảng phái thân cộng như các ông Sainteney, Leclerc, Raymond Aubrac, Moutet...Hồ Chí Minh khi viết lá thư này đã tự đưa ra mâu thuẫn. Nếu chính phủ Pháp đã ký tạm ước một cách danh chánh ngôn thuận thì tại sao ông còn phải viết thư cầu cứu bà Sô Dít? Thật ra, ông Hồ tạo ra hiện tượng này là để "câu giờ" (đúng như sách báo Đảng đã viết). Mặt khác, khi trở lại Hà Nội, ông mang về cái "tạm ước" giả tạo này để làm tiếng vang trong dân chúng, cho người ta tưởng như đó là thật - Việt Minh đã nằm trong liên hiệp Pháp rồi.

    Đến đây có lẽ người ta tự hỏi: Nhật đã đảo chánh Pháp vào 3/1945. Pháp đã ra khỏi Việt Nam và quốc trưởng Bảo Đại đã tuyên bố Việt Nam độc lập trước quốc dân. Nhưng rồi không lâu, Nhật rút khỏi Việt Nam và đầu hàng quân đội liên hiệp dẫn đầu bởi Hoa Kỳ, ngày 19/8/1945, quốc tế cộng sản Nguyễn Aí Quốc (Hồ Chí Minh) lãnh đạo tập đoàn Việt Minh cướp chính quyền. Việt Minh lúc này vẫn còn lên án Pháp đồng thời đổi qua thân Hoa Kỳ (xanh vỏ đỏ lòng). Khi không lợi dụng được Hoa Kỳ mặc dù cố gắng rất nhiều, Hồ đổi chiến thuật và quay qua thân Pháp (chính phủ thân cộng Pháp) để mong được sự công nhận và hỗ trợ. Như vậy Hồ lấy lý do gì để biện hộ cho tội thân Pháp thay vì chống Pháp? Thế mà bấy lâu nay hằng triệu cuốn sách của Đảng lúc nào cũng cho là Hồ có công chống Pháp giành độc lập.
    Ngay từ đầu, nếu Hồ Chí Minh không ký Hiệp Ước Sơ Bộ ngày 6/3/1946 với Pháp (thân cộng) mang Pháp về tàn sát đồng bào, sát hại những thành phần chống Pháp như Quốc Dân Đảng, thì đâu có chiến tranh xảy ra, đâu có hằng chục ngàn thanh niên miền Bắc phải bị thiêu thân trong trận chiến 1946-1954. Bộ đội Việt Minh đâu biết rằng chính phủ Pháp khi đã có chiến tranh với Việt Minh là sự tuyên chiến giữa hai phe cộng sản và không cộng sản. Hồ Chí Minh khéo léo lợi dụng lòng yêu nước của toàn dân để hô hào kháng chiến chống Pháp "xâm lược." Nhưng hãy tự hỏi, chính ông Hồ đã viết thư yêu cầu bà Sô Dít giúp ông làm mọi cách để mong Pháp trở lại kia mà? Ông Hồ mong Pháp và chính phủ của ông được nằm trong "liên hiệp Pháp" cùng Pháp hợp tác có lợi đôi bên kia mà.

    Trở lại với ngày Hồ từ Pháp trở về. Nếu ông Hồ khi về nước nói ngay ra là chính phủ Pháp đã thay đổi thành phần, đã quay lưng lại chống cộng sản thì rất nguy hiểm cho tập đoàn của ông. Lúc này các thành phần quốc gia đang có thái độ chống đối mạnh mẽ từ sau vụ Hồ Chí Minh ký hiệp ước Sơ Bộ ngày 6/3/1946 với phe chính phủ Pháp thân cộng, mang 15 ngàn quân về chiếm đóng, đồng thời dùng Pháp để tiêu diệt các đảng phái quốc gia. Nếu người quốc gia biết chính phủ Pháp lúc này chống cộng sản thì chắc chắn là một lợi thế cho công cuộc đương đầu với tập đoàn cộng sản.Trong phái đoàn qua Pháp dự hội nghị Fontainebleau do Phạm Văn Đồng hướng dẫn có một đại diện các khối chính đảng quốc gia. Nhóm này có tên Liên Việt, gồm toàn cán bộ cộng sản, ngoại trừ một vài người và cụ chủ tịch Huỳnh Thúc Kháng.

    Mục đích của Việt Minh là để làm lắng dịu sự chống đối của các khối quốc gia trong nước, ngay cả tại miền Nam. Vì sợ âm mưu bị tiết lộ, nên Hồ Chí Minh phải đi theo ngã riêng qua Pháp là vậy. Trong "Hồ Chí Minh - Chiến Sĩ Cách Mạng Quốc Tế" tác giả Phan Ngọc Liên và Trịnh Vương Hồng, trang 312:" Nội các Phêlic Goanh vừa đổ, ở Pari chẳng còn chính phủ để đón tiếp Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. .." Chính sách này cũng xác nhận nội các của chính phủ dẫn đầu bởi Félex Gouin đã không còn nắm quyền nước Pháp, mà Gouin là phe thân cộng đã giúp Hồ Chí Minh mang Pháp về Việt Nam cai trị tiếp qua Hiệp Ước Sơ Bộ 6/3/1946. Theo tài liệu tình báo của OSS, vào 1946, Hoa Kỳ đã có những tài liệu mà họ gọi là "tam giác" giữa Félex Gouin, Nga, và Hồ Chí Minh.

    Một sử liệu khác. Ban Giảng Huấn Việt Tộc, trụ sở tại Paris, Pháp, tài liệu ghi về "Biến Cố 19-8-45" có đoạn: "Ngay tối hôm đó, 2 giờ sáng ngày 14/9/1946, Hồ Chí Minh đích thân đến tư thất ông Bộ Trưởng Moutet để xin ký: ưng thuận các điều khoản của người Pháp đưa ra. Ông Moutet tiếp trong bộ quần áo ngủ, và hiệp định được ký trên đầu giường của ông và bà Bộ Trưởng Moutet. Trước khi ra đi thì Hồ chủ tịch có nói với một câu: Tôi đã ký bản án tử hình cho dân tộc tôi....Về dữ kiện này, những ai ở Paris có thể tìm kiếm trong các thư viện, những báo chí thời đó như Figaro, Le Monde hay Paris Match...thì sẽ thấy rõ như ban ngày."

    Như vậy tài liệu trên đã chứng minh rõ tâm địa của ông Hồ.Ông vì quyền lợi của quốc tế cộng sản và của phe cánh mà có hành động phản quốc như trên. Trong tạm ước Modus Vivendi cũng như hiệp ước Sơ Bộ trước đó, nội dung tương tự giống nhau, cũng là những điều khoản chia chát quyền lợi giữa Pháp thân cộng và Việt cộng. Lúc này là giai đoạn ông Hồ rất cần đồng minh làm thế che chở sau khi ông bị Hoa Kỳ bỏ rơi, mặc dù ông tốn nhiều công sức trước ngày 2/9/45 yêu cầu Hoa Kỳ nhìn nhận. Bản chất và bản thân của ông Hồ và tập đoàn là cộng sản, nhưng vì quyền lợi của Đảng mà ông lèo lái nghiêng ngả, khi thì chạy theo phe này, khi thì nạp mình cho phe khác, mập mờ ẩn ẩn hiện hiện...Rõ ràng nhất là việc ông bằng lòng với Pháp thân cộng mang 15 ngàn quân Pháp về Hải Phòng rồi tiến lên Hà Nội để đánh lại các đảng phái quốc gia.

    Người Pháp đã ra đi sau vụ Nhật đảo chánh Pháp vào 3/1945. Pháp trở lại Việt Nam. Máy bay Mỹ chở Sainteney về Hà Nội ngay sau khi Nhật đầu hàng và Việt Minh cướp chính quyền 2/9/1945. Tại sao Mỹ giúp Pháp trở lại VN ngay lúc này? Nguyên Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, MacNamara, trong cuốn In Retrospect, trang 31, ông viết: "I knew that Ho Chi Minh had declared Vietnam's independence after Japan's surrender but that the United States had acquiesced to France's return to Indochina for fear that a Franco-American split would make it harder to contain Soviet expansion in Europe." Dịch nghĩa câu trên: "Tôi biết rằng Hồ Chí Minh đã tuyên bố Việt Nam độc lập sau khi Nhật đầu hàng nhưng Hoa Kỳ đã thừa nhận sự trở lại Đông Dương của Pháp bởi vì Hoa Kỳ lo sợ rằng sự tách rời của Pháp và Mỹ có thể sẽ khó khăn hơn để ngăn chặn sự bành trướng của Liên Sô tại Âu Châu." Như vậy luận điệu cho rằng Pháp trở lại Việt Nam để thiết lập chế độ thực dân là không tưởng và không có bằng chứng gì cụ thể. Ông McNamara cho rằng Pháp cần thiết trở lại Đông Dương, làm bàn chắn, và có sự liên kết thừa nhận của Hoa Kỳ cũng chỉ vì để kiềm hãm làn sóng đỏ của thế giới cộng sản. Hơn nữa, sau thế chiến thứ hai, các nước có thuộc địa bị thế giới ràng buộc phải trả lại độc lập cho bản xứ. Pháp đã trả độc lập cho Lebanon và Syria vào 1946 trước khi xảy ra cuộc chiến với Việt Minh 12/1946. Vai trò của Pháp trong lúc này không phải là thực dân hay xâm lược.
    Trong tình hình tranh tối tranh sáng này, tại miền Nam thì De Gaulle cử Leclerc về phụ trách quân đội, còn D'argenlieu làm Thượng Sứ kiêm Tham Mưu Trưởng lực lượng Pháp ở Đông Dương. Như trình bày trên, vai trò của Pháp lúc này không phải với tư cách thực dân mà với nhiệm vụ khác hơn, bởi vì trong giai đoạn này các nước thuộc địa trong vùng đang có phong trào đòi độc lập. D'argenlieu lại là người của De Gaulle, được coi như không phải là phe ủng hộ độc tài cộng sản. Thế nên đã có một trận ấu đả giằng co giữa Phạm Văn Đồng và D'argenlieu tại hội nghị Fontainebleau khi hai bên không đồng ý các điều khoản trong hiệp ước Sơ Bộ. D'argenlieu nhất quyết không để Nam Kỳ bị lọt vào tay Hồ Chí Minh như trong hiệp ước đề ra gọi là "thống nhất ba kỳ. "Sử Địa 12ab," 1974, nhà xuất bản Trường Thi, Saigon, trang 78, có ghi: "Ngay khi khai mạc Đồng chỉ trích nẩy lửa D'argenlieu. Hai bên bàn cãi hoàn toàn mâu thuẫn."
    Nước Pháp lúc này nằm trong giai đoạn vô cùng lủng củng. Chính phủ lâm thời 6/1944-1/1947 do 5 người thay phiên nhau lãnh đạo (Chairmen): Charles de Gaulle 6/1944-1/1946; Félex Gouin 1/1946-6/1946; Georges Bidault 6/1946-11/1946; Vincent Auriol 11/1946-12/1946; Leon Blum 12/1946-1/1947. Ngay lúc ký Hiệp Ước Sơ Bộ thì phe thân cộng Felix Gouin, nhưng đến 6/1946 phe chống cộng lên nắm quyền lãnh đạo bởi Georges Bidault, và đây là giai đoạn khốn đốn của Hồ Chí Minh, cũng là thời điểm mở màn cho cuộc chiến tranh Đông Dương từ 1946-1954.
    Sách báo cộng sản, nhất là các bài và câu hỏi hướng dẫn học sinh sinh viên, khi viết tại sao Hồ Chí Minh ký hiệp ước Sơ Bộ mang Pháp về cai trị lần hai, đã xuyên tạc lịch sử một cách trắng trợn. Họ cho rằng đó là "một biện pháp đúng đắn và sáng tạo, nhằm giúp ta tạm hòa với Pháp, nhanh chóng đuổi nhanh 20 ngàn quân Tưởng về nước..." Thật ra, sau khi thế chiến thứ hai kết thúc có hội nghị Posdam do Hoa Kỳ, Anh, Trung Hoa đồng ý về việc buộc Nhật phải đầu hàng, và việc giải giới quân Nhật tại Việt Nam: Anh đảm nhiệm ở miền Nam, còn quân Trung Hoa (Tưởng Giới Thạch) lo liệu ở miền Bắc.

    Cộng sản cho rằng ông Hồ mang Pháp về là để thay thế quân Tưởng vì cho rằng quân Tưởng sẽ "xâm lăng" miền Bắc để cai trị. Kế hoạch thâm hiểm này được ghi ra trong phần 2 của hiệp ước Sơ Bộ - "Việt Nam sẵn sàng thân mật tiếp đón quân đội Pháp thay thế quân đội Trung Hoa theo những hiệp ước quốc tế đã ký kết." Trên thực tế thì chưa có sử liệu nào ghi rõ rệt mục đích Pháp về Việt Nam để thay thế quân đội Trung Hoa, chỉ thấy ông Hồ và Pháp thân cộng đặt ra trong hiệp ước Sơ Bộ mà thôi. Cũng như trong phần 1, hiệp ước ghi, trích từ "Sử Địa 12ab": "Pháp công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một quốc gia tự do, có chính phủ riêng, quân đội riêng, tài chánh riêng trong liên bang Đông Dương và trong liên hiệp Pháp. Pháp thừa nhận kết quả cuộc trưng cầu dân ý về sự thống nhất ba kỳ." Lại cũng là luận điệu của người làm ra hiệp ước theo ý của họ. Cuộc trưng cầu dân ý về sự thống nhất ba miền xảy ra hồi nào và ở đâu? Người dân miền Nam có biết chút gì về vấn đề thống nhất này không? Chắc chắn là không. Miền Nam đã có chính phủ tự trị. Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh được bầu làm chủ tịch lâm thời Cộng Hòa Nam Kỳ, không liên hệ gì với phe cánh cộng sản của Hồ Chí Minh. Như trình bày trên, ông D'argenlieu đã chống đối kịch liệt khi biết Hồ đã ghi ra như thế trong hiệp ước Sơ Bộ.

    Trở lại việc Hồ Chí Minh ký tạm ước Modus Vivendi, đêm 14 tháng 9, 1946 (có sách ghi tạm ước 14/9/1946 hay 15/9/1946 tính theo ngày Việt Nam), ông ta đã tự thú nhận trước mặt Moutet là "Tôi đã ký bản án tử hình cho dân tộc tôi!" Tại sao Hồ Chí Minh biết mình là kẻ có tội, xem vận mạng dân tộc như một trò chơi mà vẫn cứ làm? Ngay lúc Hồ thoát ra câu nói ấy, chắc chắn ông đã mường tượng hình ảnh đau thương của đồng bào ông, cảnh tượng chiến tranh kinh hoàng, chết chóc xảy ra... Hồ Chí Minh vẫn một mực đi theo con đường đã chọn. Người quốc tế cộng sản Hồ Chí Minh không thể toàn mạng nếu không phục tùng chỉ đạo của đàn anh Nga Tàu. Kỷ luật sắt ông đã nằm lòng sau nhiều năm được huấn luyện làm người cộng sản. Hơn nữa, ông đang lãnh đạo một tập đoàn, và treo vào cổ dân miền Bắc một chế độ ngoại lai với đầy mỹ từ cao đẹp, trong đó có không ít người ủng hộ, dựa vào giáo điều từ Marx, Lenin, Stalin, Mao, ông không ngần ngại làm kẻ sát nhân để đạt được mục đích.

    1. Hồ Chí Minh biết tạm ước này chỉ là một cách "câu giờ" mang về che mắt dân chúng và các thành phần "liên hiệp" người quốc gia. Nếu tạm ước thật sự có giá trị thì kết quả cũng vẫn là chiến tranh, bởi vì đó là một hình thức cấu kết với ngoại bang, cỗng rắn cắn gà nhà. Chính Hồ cũng tự mình nói tạm ước là bản án tử hình cho dân tộc ông mà ông đã ký, bởi ông không thể trở thành người quốc gia yêu nước, mà ông phải dùng bất cứ phương tiện gì dù tàn độc đến đâu để thực hiện mục tiêu đề ra (cứu cánh biện minh cho phương tiện). Cứu cánh hay mục đích đó là nhuộm đỏ miền Bắc, và sau đó cả nước Việt Nam, cùng tiến lên nhuôm đỏ cả Đông Dương và toàn thế giới để đến đại đồng...
    2. Trên thực tế thì quốc hội Pháp đang được nắm quyền bởi phe không thân cộng (cộng sản gọi là phe hữu) nên dù muốn dù không Hồ Chí Minh vẫn là kẻ đối nghịch với Pháp, nên chiến tranh không thể tránh khỏi. Lúc này khối cộng sản tại Đông Âu đang hoành hành và là mối đe dọa khủng khiếp cho khối tự do. Việc Mỹ ủng hộ và cung cấp súng đạn cho Pháp đánh cộng sản tại Á Châu là điều cần thiết.
    Ngày 19 tháng 12, 1946, Hồ Chí Minh viết "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến." Ông viết: " Không! chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ." Đây là một sự ngụy biện trắng trợn. Hồ không dám nói ra sự thật tại sao Pháp lại chống ông ta, và nguyên do của cuộc chiến tranh này. Ông lại ngụy biện với chiêu bài Pháp "xâm lược" để nung đúc lòng tòan dân đứng lên kháng chiến. Ông kêu gọi toàn dân "hy sinh tất cả" ngụy dưới từ yêu nước để lùa toàn dân vào cuộc chiến, nhất là rất nhiều thanh niên đã mất mạng trong cuộc chiến 1946-1954, với chiến thuật biển người.

    Tóm lại cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất tại Việt Nam xảy ra từ 12/1946- 5/1954 phải gọi là cuộc chiến giữa hai phe cộng sản và quốc gia, trong đó khối cộng sản, bắt đầu xuất hiện trên chiến trường sau thế chiến thứ hai, là mối đe dọa của phe tự do. Vì quyết tâm thực hiện mục tiêu của quốc tế cộng sản đề ra mà Hồ Chí Minh đã tạo ra nguyên nhân của cuộc chiến. Sau đó Hồ lại dùng chiêu bài "chống Pháp" để lùa người yêu nước vào lò lửa chiến tranh thì phải dùng bạo lực, phải tạo chiến tranh. Bài học này có phải được rút tỉa từ những kinh nghiệm lịch sử của phe cộng sản. Lenin cướp chính quyền bên Nga?, và liền sau đó lãnh đạo Bolshevic của Lenin đã ký với Đức hiệp ước Brest - Litovst, sẵn sàng nhượng bộ một số đất đai cho Đức để mong sự hỗ trợ sau này. Có quan niệm cho rằng hiệp ước Sơ Bộ 6/3/1946 có mục tiêu tương tự: làm cho Pháp thân cộng chính thức công nhận "chính phủ" vừa cướp được, và từ đó đặt nền móng cho chế độ, song song với việc giúp sức của Pháp; nhưng cuối cùng thì sự liên kết đã tan rã vì quốc hội Pháp từ 6/1946 đã thay đổi thành phần tức do phe chống cộng lãnh đạo.

    Không gì chứng minh trung thực cho bằng lấy lời của Hồ Chí Minh về tội bán nước. "Hồ Chí Minh - Chiến Sĩ Cách Mạng Quốc Tế" trang 310 ghi: "Các loại kẻ thù của cách mạng trong và ngoài nước đều mong muốn chính quyền cách mạng sụp đổ, song nhân dân tuyệt đối tin tưởng Đảng và Nhà nước, vì cuộc đời chiến đấu, hy sinh của Người đã đảm bảo cho lòng tin vững chắc này như Người nói: "Tôi Hồ Chí Minh, suốt đời cùng đồng bào chiến đấu cho độc lập của Tổ quốc, không bao giờ bán nước."" Tại sao Hồ Chí Minh tự biện hộ cho mình là không bao giờ bán nước? Thế thì có phải tiếng đồn trong dân gian đã lan rộng về hành động phản quốc của ông?
    Bút Sử
    Hồ Chí Minh và Đảng bán nước mấy lần?

    HCM ăn mừng ngày ký Hiệp Ước Sơ Bộ 6/3/46 với Pháp - Tướng Leclerc, Hồ Chí Minh, Sainteny
    (Hình ảnh sưu tầm từ kho văn khố Pháp)

    Ngày 2/9/45 Hồ Chí Minh đã ra mắt trình diện tại Ba Đình và đọc "Tuyên Ngôn Độc Lập", nhưng rồi sau đó không có quốc gia nào công nhận cái "chính phủ ăn cướp" của ông Hồ. Tương kế tựu kế, Hồ Chí Minh mang Pháp về để được Pháp công nhận qua Hiệp Ước Sơ Bộ 6/3/1946, và Tạm Ước Modus Vivendi 14/9/1946 bên lề của Hội Nghị Fontainebleau. Hiệp Ước Sơ Bộ Hồ ký với Jean Sainteny một cách gắp rút khi 15 ngàn quân Pháp đang đến Hải Phòng. Sainteny là đảng viên Đảng Xã Hội Pháp, thân Cộng Sản. Pháp trở về lần thứ 2 kỳ này, Hồ Chí Minh đã mượn tay Pháp tiêu diệt ca'c đảng phái quốc gia.

    Khi bị dân chúng và các khối chính đảng lên án "Hồ Chí Minh bán nước" thì Hồ viện giải mơ hồ là "Hồ Chủ Tịch ta không muốn chiến tranh...Nhân dân không bằng lòng, vì họ căm thù sâu sắc bọn Pháp thực dân. Trước mặt đông đảo quần chúng, Hồ Chủ Tịch giải thích những nguyên nhân trong nước và ngoài nước bắt buộc phải ký hiệp định. Cuối cùng chủ tịch kết thúc bằng những lời cảm động 'Hồ Chí Minh không và sẽ không bao giờ là một người bán nước'" (Trần Dân Tiên, bút danh của Hồ Chí Minh, trong Những Mẩu Chuyện..., trang 132). Nhưng thực ra, Hồ mang Pháp về vì Pháp này là Pháp cộng sản cùng phe với ông. Ông Hồ lại không giải nghĩa lý do tại sao "bắt buộc phải ký hiệp định."

    Không bao lâu, quốc hội thuộc phe cánh Đảng Xã Hội nắm quyền đã bị thay thế bởi phe hữu (danh từ cộng sản, tức chống cộng), chính phủ Pháp đã thay đổi đường lối và gây chiến với Việt Minh bắt đầu 12/1946. Trận chiến cuối cùng kết thúc tại Điện Biên Phủ.

    Hình trên chúng ta thấy Hồ Chí Minh và Sainteny cùng Leclerc cụng ly rượu chúc mừng sau khi ký Hiệp Ước Sơ Bộ. Người ta thường nói đây là lần đầu tiên Hồ bán nước.

    Lần thứ 2 Hồ bán nước phải là Hiệp Định Geneve ngày 20/7/1954 phe Hồ đã ký với Pháp để chia đôi đất nước tại vĩ tuyến 17 theo sự sắp xếp quan thầy Nga Tàu. Phe cộng sản đã không thực thi Hiệp Định xua quân qua đường trường sơn xâm lăng miền Nam theo chỉ thị của Nga Tàu. Hồ Chí Minh đã tạo ra cuộc chiến tranh máu đổ tương tàn, anh em một nhà giết hại lẫn nhau để phục vụ cho quyền lợi thống trị của quốc tế cộng sản.

    Bán nước lần thứ 3 là Công Hàm Phạm Văn Đồng thừa lệnh Hồ ký gửi Chu Ân Lai 14/9/1958 bằng lòng dâng 12 hải lý cho Trung Cộng gồm một số đảo thuộc Trường Sa và Hoàng Sa.

    Đảng của ông Hồ bán nước lần 4 phải nói Hiệp Định Paris 27 tháng 1, 1973. Trong Hiệp Định này phải nói có sự dàn dựng tinh vi của phe cộng sản Bắc Việt để ép Mỹ rút quân. Tuy nhiên, nếu chiếu theo Hiệp Định thì miền Bắc bằng lòng không xua quân xâm lăng miền Nam nữa, phần đất ai nấy giữ. Thế mà vừa ký xong thì đã có những trận công kích của cộng sản. Cộng sản Nga Tàu ồ ạt viện trợ súng đạn để mau biến Việt Nam thành một thành viên chư hầu của quốc tế cộng sản.

    Đảng cộng sản bán nước lần thứ 5 phải kể trận hải chiến giữa Việt Nam Cộng Hoà và Trung Cộng vào 1974 đã làm thiệt mạng gần 60 chiến sĩ anh dũng khi Trung Cộng tấn công chiếm đảo Hoàng Sa. Ngay lúc cam go này thì Đảng Cộng miền Bắc im thin thít, hẳn đang vui mừng vì đàn anh Trung Cộng đang bắn giết phe địch là những đồng bào miền Nam. Thời điểm này coi như miền Nam Mỹ đã rút quân, một cơ hội cho Trung Cộng mượn cớ công hàm 1958 để tấn chiếm hải đảo. Lúc này mới lòi mặt những tên bán nước cộng sản miền Bắc, mới biết ai dấn thân bỏ mạng vì tổ quốc. Ông cựu đảng viên Bùi Tín cũng đã từng tuyên bố cộng sản Bắc Việt làm ngơ vụ này vì họ coi Trung Cộng như anh em ruột thịt còn đồng bào miền Nam là đối thủ, cho nên Hoàng Sa- Trường Sa thuộc về phe cộng sản vẫn hơn.

    Sau ngày cưỡng chiếm miền Nam 30/4/1975, sự nô lệ lại càng nặng nề hơn trước. Hậu duệ của Hồ, Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh đã ký bí mật với Trung Cộng những hiệp ước bằng lòng dâng đất nhượng biển cho Trung Cộng vào các năm 1999 và 2000... Mốc cấm biên giới đã bị dời sâu vào hướng Nam.
    Bản đồ nước Việt Nam đã thay hình đổi dạng, phần trên đã bị tà đầu. Một phần biển đã thuộc về Trung Cộng mà ngư dân chưa biết nên cứ tiếp tục đánh cá. Có ít nhất 15 người đã bị hải quân Tàu bắn chết trong các năm 2005, 2007. Đảng và Nhà Nước đến nay vẫn im, không hề giải thích cho dân chúng biết tại sao phải có hành động dâng hiến lãnh thổ và lãnh hải cho Trung Cộng như thế. Thậm chí học sinh sinh viên biểu tình chống Trung Cộng thì bị công an bắt bỏ tù. Đối với những ai am tường cuộc chiến thì rất dể hiểu: bởi vì một phần trả nợ chiến tranh vì Trung Cộng đã trợ giúp từ 1946-1975, thứ đến nếu có biến động chính trị (người dân nổi lên) thì cộng sản nhờ đàn anh Tàu cộng ra tay phụ đàn áp. Đó là thái độ và bản chất của những người cộng sản Việt Nam từ trước tới nay. Muốn bảo vệ quyền lợi cai trị thì dù có dâng cả tổ tiên, đất nai, dân tộc, họ vẫn cứ làm. Nô lệ từ trong tâm thức nô lệ ra là vậy!

    Giai đoạn bán nước coi như đã gần hoàn tất. Đầu năm 2009, Cộng Sản Việt Nam đã cuí đầu cho phép hàng ngàn người Tàu vào mảnh đất Việt Nam ở miền Bắc, Tây Nguyên, Nam phần... Trung Cộng mượn cớ là khai thác khoáng sản để đặt nền tảng quân sự và chính trị? Vùng biển đông chúng cũng đã bành trướng sự kiểm soát. Hoàng Sa của Việt Nam Trung Cộng đã đặt nhiều đồn bót quân sự (1999), thành lập phi trường (2007). Người Tàu ra vào Việt Nam như đi chợ, không cần visa hay giấy tờ gì cả. Như vậy thì có phải Việt Nam đã hoàn toàn lệ thuộc Trung Cộng rồi? Tội bán nước hại dân của đầu đảng Hồ Chí Minh và hậu duệ đáng để người dân lên án muôn đời không?

    Bút Sử 


    No comments:

    Post a Comment