Bình luận về Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam

Bình luận về Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam

Monday 31 December 2012

HỒ CHÍ MINH IV * HỒ CHÍ MINH





CHƯƠNG IV


HỒ CHÍ MINH LÀ AI?

Trước khi đi sâu vào chương này, chúng ta nên ôn lại tình hình Việt Nam và thế giới . Năm 1904, Nhật Nga chiến tranh, Nhật thắng lợi khiến cho những nước bị thực dân, đế quốc Anh, Pháp đô hộ nức lòng tin tưởng công cuộc canh tân. Trong thời gian này, Phan Bội Châu khởi xướng phong trào Duy Tân và Đông Du. Các chiến sĩ cách mạng sang Nhật, Trung Quốc, Thái Lan và Pháp hoạt động cách mạng. Lúc này tình thần quốc gia lên cao, chưa co mầm móng cộng sản, cho nên chưa có sự phân biệt Quốc Cộng như sau này. Cụ Phan Chu Trinh, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường, Phan Bội Châu, Hồ Học Lãm xem những người đồng hương là đồng chí. Hơn nữa bọn này khéo nịnh hót, lợi dụng tình đồng xứ Nghệ An, ăn dầm ở dề, và sống bám vào các cụ, vốn cũng chẳng giàu có gì.  Thương hại chúng, và cũng vì tình đồng bào, các cụ cưu mang chúng, xem Nguyễn Tất Thành như con cháu, cho nên bị Nguyễn Tất Thành và đồng bọn  cộng sản Hoàng Văn Hoan, Phạm Văn Đồng xâm nhập nội bộ rồi lừa đảo.

Và chúng ta cũng cần biết rằng khi cách mạng tân hợi (1911) xảy ra, lật đổ nhà Mãn Thanh, thiết lập Trung Hoa Dân Quốc. Trước 1911, Tôn Dật Tiên sống tại Nhật Bản, lập Đồng Minh Hội. Sau cách mạng tân hợi (1911), Tôn Dật Tiên làm tổng thống nhưng bị Viên Thế Khải chiếm quyền, sau Tôn Dật Tiên lập Trung Hoa Cách Mạng đảng, trở lại làm Tổng thống. Năm 1914, Nhật xâm chiếm Sơn Đông của Trung Quốc, Năm 1919, Tôn Dật Tiên tái lập Quốc Dân đảng, năm 1920,Tôn Dật Tiên muốn đựa vào Nga để củng cố quyền lực, mà Liên Xô cũng muốn biến Quốc Dân đảng thành công cụ của Cộng sản. Năm 1923 một tuyên bố chung giữa Tôn Dật Tiên và đại diện Liên Xô tại Thượng Hải cam kết sự hỗ trợ của Liên Xô cho quá trình thống nhất Trung Quốc. Các cố vấn Xô viết — người nổi tiếng nhất là một thành viên của Quốc tế Cộng sản III, Mikhail Borodin — bắt đầu tới Trung Quốc năm 1923 để giúp đỡ tái tổ chức và củng cố Quốc Dân Đảng theo hình thức Đảng Cộng sản Liên Xô. Vì vậy mà sau này, Tôn Dật Tiên bắt tay với Cộng đảng Xô Viết, con Tưởng Giới Thạch và các viên chức cao cấp của Quốc Dân đảng sang học tại Liên Xô, và các đảng viên Cộng Sản Trung Quốc giữ chức vụ quan trong Quốc Dân đảng. Năm 1923, Tôn Dật Tiên cử Tưởng Giới Thạch, một trong những trợ thủ của Tôn Dật Tiên từ ngày Đồng Minh hội, tới học quân sự trong nhiều tháng ở Moskva. Sau khi Tưởng Giới Thạch trở về vào cuối năm 1923, ông tham gia vào việc thành lập Trường Võ bị Hoàng Phố bên ngoài Quảng Châu, là khu vực chính phủ thuộc liên minh của Quốc Dân Đảng và Cộng Sản Đảng.Nhưng thời kỳ hoà hợp hòa giải, Quốc Cộng đoàn kết, hợp tác không tồn tại lâu dài vì năm 1927, Tưởng Giới Thạch càn quét Cộng sản.Từ đây hai phe Quốc Cộng chống đối nhau dữ dội mặc dầu Mỹ ve vuốt cả hai, viện trợ cho cả hai để kháng Nhật. Những sự kiện có liên quan mật thiết tới cách mạng Việt Nam.
 
Khi ở Pháp, Nguyễn Tất Thành tiếm danh hiệu Nguyễn Ái Quốc của Nguyễn Thế Truyền, Phan Chu Trinh,  Phan Văn Trường. Sau đó ông qua Nga rồi sang Trung Quốc. Một tài liệu báo đảng cộng sản đã cho ta biết 169 tên và bút hiệu của Nguyễn Tất Thành.Trong thời gian 1924- 1941, hoạt động tại Trung Quốc, ông dùng nhiều tên như Công Nhân,  Vícto,   V,  K, Đông Dương, Quac.E. Wen,  K.V,  Tống Văn Sơ, New Man, Li Nốp,  Teng Man Huon, Hồ Quang, D.C. Lin, Lâm Tam Xuyên, Ông Trần,  Bình Sơn, Đi Đông; Cúng Sáu Sán, Già Thu... Tên Hồ Chí Minh được dùng từ 1942 .(1)
 Tuy nhiên, vài tài liệu nói tên Hồ Chí Minh được dùng từ 1940.

I. CÁC TÀI LIỆU VỀ HỒ CHÍ MINH TRƯỚC NĂM 2000 

Sau khi sang Trung Quốc, Nguyễn Tất Thành cũng tiếm danh một lần nữa. Lúc bấy giờ  sau vụ Sô Viết Nghệ Tĩnh 1930, cái tên Nguyễn Ái Quốc và danh hiệu cộng sản đã làm dân ta  kinh hồn khiếp vía cho nên ông phải thay đổi danh tính để lừa đảo nhân dân Việt Nam.  Việc này cũng có mục đích giúp ông tránh được sự theo dõi của Anh, Pháp. Vì vậy, ông lấy tên là Hồ Chí Minh, Hồ Quang. Hồ Chí Minh, Hồ Quang là bí danh của Hồ Học Lãm, một nhà cách mạng Việt Nam, đã theo Phan Bội Châu Đông Du. 


Hồ Học Lãm ( 1883?-1942), tự Hinh Sơn, quê làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông có họ hàng gần với nhà cách mạng Hồ Tùng Mậu, là cháu đích tôn của cụ Hồ Bá Ôn.
Ông nội là Hồ Bá Ôn, án sát tỉnh Nam Định, hy sinh năm 1883 trong trận đánh chống Pháp giữ thành Nam Định. Con cả của cụ Hồ Bá Ôn là Hồ Bá Kiện tham gia phong trào Văn Thân, bị Pháp bắt giam rồi bắn chết ở Lao Bảo. Con thứ hai là Hồ Thúc Linh đậu cử nhân, cũng hưởng ứng phong trào chống Pháp nên bị thực dân Pháp bắt giam và tra tấn. Ông Hồ Học Lãm là con của liệt sĩ Hồ Bá Trị và bà Trần Thị Trâm, 
Thân phụ mất sớm vì bị thực dân Pháp giết hại năm 1885, ông và người anh Hồ Xuân Kiên do một tay thân mẫu nuôi nấng và giáo dục. Bà vốn là con gái Tiến sĩ Trần Hữu Dực, Tri phủ Vĩnh Tường; là một nhà hoạt động nổi tiếng từ thời Cần Vương, một cánh tay đắc lực của Phan Đình Phùng trong cuộc khởi nghĩa Vụ Quang, từng cùng với chí sĩ Thân Sơn Ngô Quảng sang Xiêm La mua súng cho nghĩa quân kháng Pháp. Do bà thường sắm vai buôn lụa để hoạt động nên có tên là "bà Lụa". Bà cũng là mẹ đỡ đầu của cô Chiêu Thanh (tức Nguyễn Thị Thanh, chị ruột của Nguyễn Tất Thành).
Do ảnh hưởng từ sự giáo dục của thân mẫu, ông sớm ý thức về lòng yêu nước, năm 1908, hưởng ứng phong trào Đông du, phong trào Duy tân, ông du học sang Nhật. Khi các du học sinh Việt Nam ở Nhật bị trục xuất, ông sang Trung Quốc vào học Trường Võ bị Bắc Kinh.

Tốt nghiệp, trở thành một sĩ quan cao cấp trong quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu, nhưng trong lòng ông vẫn hướng về tổ quốc. Nhà ông là cơ sở đón tiếp các chiến sĩ cách mạng Việt Nam đến bàn việc cứu nước, giải phóng dân tộc. Một số nhà cách mạng từng lưu trú tại nhà ông như Hoàng Văn Hoan, Lê Thiết Hùng...

Năm 1936, ông tham gia tổ chức Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội của hoàng thân Cường Để , và năm 1937, lấy bí danh Hồ Chí Minh và dùng tiền riêng để ra một tờ tạp chí nhỏ bằng chữ Hán lấy tên là Việt Thanh.  Năm 1938, Lý Thụy lấy bi danh Hồ Quang sai bọn đàn em là
Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng), Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp), Lý Quang Hoa (Hoàng Văn Hoan) len lõi để phá hoại.
Năm 1940, Hồ Học Lãm ốm nặng, phải nằm bệnh viện tại Quế Lâm. Lý Thụy thấy danh Hồ Chí Minh , Hồ Quang và tổ chức
Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội là có ảnh hưởng lớn trong các nhà cách mạng và quốc dân Việt Nam cho nên Lý Thụy cũng tiếm danh Hồ Chí Minh vàViệt Nam Độc lập Đồng minh Hội.(Wikipedia)
HOÀNG VĂN HOAN  trong " Giọt Nước Trong Biển Cả" đã thuật việc ông buổi đầu sang TrungQuốc đã tìm đến nhà ông Hồ Học Lãm :
Nguyên ông Hồ Học Lãm là người cùng làng với tôi, cháu cụ Hồ Bá ôn, án sát tỉnh Nam Định, hy sinh năm 1883 trong khi chống Pháp để giữ thành Nam Định. Ông cũng là chú của đồng chí Hồ Tùng Mậu, và mẹ ông là bà Lụa, một người tích cực tham gia cách mạng trong thời kỳ Văn Thân, đã từng bị bắt giam và bị tra tấn rất tàn nhẫn mà vẫn không chịu khuất phục. Lúc 16, 17 tuổi, tôi thường hay đến nhà bà cụ, nghe chuyện cách mạng, vì vậy tình hình trong nhà đó, tôi rất hiểu biết. Khi gặp ông Hồ Học Lãm là tự nhiên nói đến tình hình gia đình, tình hình làng xóm, tình hình trong nước và sự dặn dò của bà cụ trong trường hợp đi ra ngoài có dịp gặp ông. Qua một hồi trò chuyện, ông Hồ đã biết rõ về tôi và khuyên tôi cứ yên tâm ở nhà ông....Ông không phải là cộng sản, điều này Quốc dân đảng Trung Quốc biết rõ trăm phần trăm. Ông đứng ra lập Việt Minh trong lúc này đối với chúng ta mà nói là một sự che chở rất có hiệu lực.....
Vào khoảng tháng 10 năm 1940, khi chúng tôi đến Quế Lâm thì Bác đã ở đó. Ông Hồ Học Lãm cũng đã được xếp đặt đến chữa ở bệnh viện Quế Lâm rồi. Chúng tôi thường bí mật gặp Bác ở Biện sự xứ Bát lộ quân để báo cáo và xin chỉ thị về cách hoạt động.
Vấn đề đầu tiên là vấn đề lấy danh nghĩa gì để hoạt động? Bác chủ trương lấy danh nghĩa Việt Nam độc lập đồng minh hội, và mời ông Hồ Học Lãm đứng ra chủ trì để chúng ta dựa vào nó mà hoạt động. Chủ trương đó xuất phát từ chỗ Việt Minh là một tổ chức mà trước kia đã cùng với ông Hồ Học Lãm không phải là cộng sản mà lại thật lòng ủng hộ chúng ta, nếu ông đứng ra sẽ được nhiều điều thuận lợi....
Để biểu thị sự hoạt động tích cực của Việt Minh, ông Hồ Học Lãm tự xuất tiền, ra một tờ tạp chí nhỏ bằng chữ Trung Quốc lấy tên là Việt Thanh, số lượng phát hành chỉ độ một trăm cuốn, cốt để gửi cho các cơ quan Quốc dân đảng Trung Quốc ở Nam Kinh, cũng có gửi cho Việt kiều ở Quảng Châu và Côn Minh độ vài chục cuốn
. Việc ông Hồ Học Lãm đứng ra lập Việt Minh là một việc có tác dụng rất quan trọng. (HOÀNG VĂN HOAN * HỒI KÝ,III. Sinh hoạt và đấu tranh ở Nam Kinh)

 Lời của Hoàng Văn Hoan cho ta biết bọn ông ăn dầm nằm dề tại nhà cụ Hồ Học Lãm, tuy nhiên, Hoàng Văn Hoan đề cao Nguyễn Tất Thành, nói xấu tổ chức cách mạng quốc gia, và không nói rõ việc cộng sản xâm nhập và tiếm danh tên Hồ Chí Minh và Việt Nam Độc Lập Đồng Minh hội , và Việt Minh của cụ Hồ Học Lãm. 

 LS. Nguyễn Văn Chức cho biết:

Ngày 20/06/1940, Pháp bị Đức đánh bại ở Âu Châu, Nguyễãn Ái Quốc triệu tập đại hội đảng tại Côn Minh, sửa soạn về  nước cướp chính quyền.  
Tưởng cũng nên nhắc lại : tại Trung Hoa lúc đó, có những tổ chức cách mạng sau đây của người Việt  quốc gia lưu vong :
1. Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội do cụ Hồ Học Lãm chủ trì.
2. Việt Nam Giải Phóng Đồng Minh Hội do cụ Trương Bội Công chủ trì.
3. Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, do cụ Nguyễn Hải Thần chủ trì.
Mượn danh nghĩa chống Pháp dành độc lập, Nguyễn Ái Quốc đã xâm nhập được những tổ chức nói  trên. Thành công ngoạn mục nhất của y là đã cướp danh xưng Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (của cụ Hồ Học Lãm) để đặt tên cho một tổ chức cộng sản của y.
Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của cụ Hồ Học Lãm đã bị bỏ mất chữ Hội, để trở thành Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt Việt Minh, một tổ chức võ trang tuyên truyền với võ khí do Trung Cộng cấp phát và cán bộ do Trung Cộng đào tạo.
Về vụ thành lập mặt trận Việt Minh, Võ Nguyên Giáp viết như sau :
“Tháng 05/1941, Người chủ trì Hội Nghị Trung Ương lần thứ 8 [...]  Hội Nghị đề ra chủ trương thành lập mặt trận rộng rãi lấy tên là Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt là Mặt Trận  Việt Minh” (Tư Tưởng Hồ Chí Minh  Và Con Đuờng Cách Mạng VN, tr. 32). 
(Nguyễn Văn Chức,HCM,CXXXII)

Trần Gia Phụng theo Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí,( sđd. t. 168) và Chính Đạo, Hồ Chí Minh, ( tập 2, Houston : Nxb. Văn Hoá, 1993, tr 281) đi đến nhận định:  
Nguyên tại Nam Kinh (Tàu), Hồ Học Lãm, một nhà cách mạng Việt Nam, đã lập ra Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh. Khi đến Hồ Nam năm 1937, Hồ Học Lãm lấy bí danh là Hồ Chí Minh .Năm 1938, Nguyễn Sinh Cung, lúc đó lấy bí danh là Hồ Quang, từ Liên Xô qua Tàu lần thứ ba. Theo lệnh của Hồ Quang, những đảng viên cộng sản như Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng), Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp), Lý Quang Hoa (Hoàng Văn Hoan) ... len lỏi vào hàng ngũ của Hồ Học Lãm. Hồ Học Lãm già yếu, ít hoạt động. Các đảng viên cộng sản liền núp dưới danh hiệu Việt Minh để hoạt động cho đảng CS, rồi dần dần chiếm dụng danh xưng nầy. Thủ lãnh Hồ Quang, cũng chiếm dụng luôn bí danh thủ lãnh Hồ Chí Minh từ năm 1942. (HCM, LXXII)

Chính Hoàng Văn Hoan trong Giọt Nước Trong Biển Cả, 3  cũng nói năm 1936, ông  Hồ Học Lãm lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh hội, gọi tắt là Việt Minh , đứng đầu là Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần, rồi trình cho Trung Hoa Quốc Dân đảng.Hội lấy tờ Việt Thanh làm cơ quan ngôn luận.

 Về điểm này, bài của Tâm Việt đã đi đến cội nguồn tên Hồ Chí Minh:
 

Trong quyển "Anh Thư Nước Việt Từ Lập Quốc Đến Hiện Đại"  tác giả Phương Lan viết về một vị anh thư tham gia cách mạng vào đầu thế kỷ 20 là bà Ngô Thị Khôn Nghi như sau: “Bà Ngô Thị Khôn Nghi, con gái cụ Ngô Quảng, một nhà Tiền bối cách mạng, một tướng lãnh xuất sắc trong nghĩa quân Cần Vương và Quang Phục ở làng Tam Đa, tổng Vạn Trình, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Bao phen vào sanh ra tử, qua nhiều lần thất bại, cụ Ngô Quảng phải bôn tẩu qua Xiêm rồi thất lộc ở đó. Cụ qua Xiêm đặng một năm, thì cụ có được hai người con, một trai một gái. Chị gái tức là Khôn Nghi, em trai tên Ngô Chính Học, được đoàn thể cách mạng đem sang Tàu cả hai”.

Trong cái chương của sách đã dẫn, tác giả Phương Lan cẩn thận đặt phụ đề là Ngô Thị Khôn Nghi Vợ Cụ Hồ Chí Minh Thật và viết tiếp: “Bà Khôn Nghi qua Tàu cũng vào trường học, sau đó kết duyên cùng cụ Hồ Học Lãm. Bao nhiêu năm cụ Lãm hoạt động cách mạng Việt Nam, ở Tàu bao nhiêu năm thì bà Khôn Nghi cùng hoạt động cách mạng ở bên cạnh chồng và nhiều đồng chí khác. Nhóm làm cách mạng Việt Nam ở Tàu, không ai không biết gia đình này, từ người quốc gia cho tới người Cộng sản.”

Cụ Hồ Chí Minh thật đó, tức là Hồ Học Lãm, là con của Án Sát Hồ Bá Ôn, người đã hy sinh như một Liệt Sĩ Dân Tộc vì đã chiến đấu đến cùng khi Pháp đánh thành Nam Định năm 1883. Hồ Học Lãm tham gia phong trào Đông Du và Duy Tân do Phan Bội Châu lãnh đạo, sang Nhật du học rồi trở về Tàu, gia nhập Quân đội Trung Hoa QDĐ, mang quân hàm trung tá, là thành viên sáng lập VNCMĐMH năm 1936. Khi Hồ Học Lãm qua đời, thì nhân vật Nguyễn Tất Thành Nguyễn Ái Quốc xử dụng ba chứng minh thư của Hồ Học Lãm mang tên Hồ Chí Minh để che dấu tông tích cộng sản của mình, để tiện việc di chuyển trên đất Tàu và xài luôn tên Hồ Chí Minh (vì vào lúc đó, Trung Hoa Dân Quốc dưới quyền Tổng Thống Tưởng Giới Thạch đã từ bỏ chính sách Liên Nga Dung Cộng nên không chấp nhận cộng sản ( Phương Lan. Khai Trí,1969, tr. 238.).

Theo Trần Trọng Kim,  khi cụ Hồ Học Lãm già yếu, đám cộng sản như Lý Thụy, Hoàng Văn Hoan thao túng VNDLDM hội, cho nên chính phủ Trung Hoa Dân Quốc cấm cộng sản hoạt động, lập ra VNDLDM hội mới vào năm 1942 với các nhân vật chủ chốt như sau:
 1) Việt Nam Phục Quốc Ðồng Minh Hội, có Hoàng Lương và Hồ Học Lãm làm đại biểu.
2) Việt Nam Quốc Dân Ðảng, có Vũ Hồng Khanh và Nghiêm Kế Tổ làm đại biểu.
3) Vô đảng phái, có Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần, Trần Báo, Trương Trung Phụng làm đại biểu. Lúc này Lý Thụy bị bắt giam, VNDLDM hội xin tha, và cho gia nhập hội.
Các đại biểu trước hết lập thành một ủy ban trừ bị do Nguyễn Hải Thần chủ tọa để xếp đặt mọi việc. Sau Hoàng Lương bị chính phủ Trung Hoa Dân quốc bắt giam.Bởi vậy ủy ban chấp hành chỉ có những người này:
Trương Bội Công, chủ tọa.
Trần Ðình Xuyên.
Nguyễn Hải Thần.
Vũ Hồng Khanh, ủy viên.
Bồ Xuân Luật.
Trương Trung Phụng.
Nông Kính Du.
Hồ Chí Minh được cử làm hậu bổ ủy viên và Trần Báo làm Tổng cán sự.
Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội vừa thành lập chưa được bao lâu thì đã có sự bất hòa trong nhóm ủy viên, nên chủ tọa là Trương Bội Công từ chức và bỏ về Vân Nam rồi mất ở đấy. Hội cử ông Nguyễn Hải Thần lên làm chủ tọa.  ( Một Cơn Gió Bụi, tr.21)

VNDLDM hội đã bị cộng sản xâm nhập. Trần Trọng Kim nhận định:"Những người ấy tuy nói là đảng nọ phái kia, nhưng kỳ thực không có sự tổ chức gì ra trò. Bọn ông Hồ Chí Minh biết như thế nên mới lợi dụng danh hiệu Việt Nam Cách Mệnh
Ðồng Minh Hội để che đậy công việc làm(sđd,22)
.
Sau 1945, HCM lại tiếm danh VNDLDM hội là chuyện dễ hiểu. 
Tài liệu của Việt Cộng cũng xác nhận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh hội là một tổ chức của người Việt tay sai Tưởng, họ ép HCM là phó chủ tịch tổ chức này.


Hồ Chí Minh bị bắt, bị giam ở Trung Quốc, khi được thả ra, tướng Trương Phát Khuê không cho Người về mà đưa người vào hoạt động trong một tổ chức người Việt, tay sai của Tưởng, đó là tổ chức Mặt trận mang tên: Việt Nam cách mạng đồng minh hội. Người đã nhận chức phó chủ tịch của tổ chức này trên danh nghĩa.
 http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_content&task=view&id=1446&Itemid=5
 Chính "bác "Trần Dân Tiên đã thú nhận rằng VNDLDMH là một tổ chức tại Liễu Châu  có trước khi ông bị tù, và lãnh tụ là Trương Bội Công và Nguyễn Hải Thần
 

Trong nhà tù này Cụ Hồ được biết ở Liễu Châu có tổ chức “Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội”. Cụ được biết rằng mình bị cầm tù lâu hơn nữa vì người ta nghi Cụ sang Trung Quốc để phá tổ chức đó.
Cách mạng Đồng minh Hội có hai lãnh tụ: Trương Bội Công và Nguyễn Hải Thần, cả hai đều đã ở Trung Quốc bốn mươi năm nay (HCM,XI,58).
Biết đó là tổ chức của phản động , tại sao " bác " lại lấy danh hiểu của họ? "Bác " không biết đó là một hành động man trá, vô đạo đức! Hay là trong lịch sử đời bác, không hề có chữ " đạo đức", và " lương thiện"?


VNDLDMH là tổ chức của tay sai Tưởng, sao HCM lại dùng danh hiệu của tay sai Tưởng? Rõ ràng là tiếm danh của kẻ thù vì cái danh này quá lớn.
Trước đây, Nguyễn Tất Thành đã ăn ở nhà cụ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường rồi lừa đảo các cụ. Lần này, bọn Hoàng Văn Hoan, Nguyễn Tất Thành cũng ăn ở nhà cụ Hồ Học Lãm, xâm nhập tổ chức của cụ Hồ Học Lãm rồi tiếm danh hiệu của cụ và tổ chức của cụ. Và sau đó, họ ăn ở nhà bà Cát Thanh Long (Thái Nguyên) rồi giết bà ấy. Toàn là làm những viết bất nghĩa, bất nhân của bọn cướp bóc, côn đồ, chứ không phải là nhà cách mạng như họ từng vỗ ngực xưng xe!
Tóm lại, Nguyễn Tất Thành đã lợi dụng lòng yêu nước của người quốc gia để làm lợi cho ông và đảng cộng sản. Quả thật Nguyễn Tất Thành một đời tiếm danh, đoạt lợi và lừa dối nhân dân Việt Nam.

Theo Trần Quốc Vượng, như đã nói ở chương trước về gia tộc Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Sinh Cung là cháu dòng Hồ Sĩ Tạo cho nên ông lấy họ Hồ. Cũng có giả thuyết nói ông yêu Nguyễn Thị Minh Khai nên lấy tên Hồ Chí Minh. Nguyễn Sinh Cung  không lãng mạn và không có óc gia tộc, tổ tiên như người ta tưởng. Nhất là sau này, một Nguyễn Tất Thành giả thì lại không cần đến những điều ấy!Cái quan trọng của ông là danh lợi, là thủ đoạn cướp quyền, cướp danh, cướp hiệu của người khác để lòe bịp thiên hạ. Như vậy là hai lần, Nguyễn Tất Thành  và cộng sản đã tiếm danh của các bậc tiền bối hữu danh. 

Từ lâu, cuộc đời hoạt động của Nguyễn Tất Thành có nhiều bí ẩn, có nhiều sự kiện, nhiều năm tháng không rõ ràng, không phải vài năm mà  mười năm từ 1931-1941 cho nên Sophie Quinn Judge gọi là "the missing years" (những năm mất tích).Ta có thể chia thành hai loại:

1.Tin rằng Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc là một.
 +1.Trước năm 2000, nhiều tài liệu đã viết về Hồ Chí Minh, phần lớn là tài liệu của Cộng sản Việt Nam và cộng sản quốc tế. Một số học giả đã tìm hiểu về Hồ Chí Minh nhưng không tìm ra những ngọn ngành sâu kín bởi vì cộng sản bao giờ cũng ẩn giấu hành tung, và thêu dệt, bịa đặt nhiều chuyện để che giấu sự thực đôi khi phũ phàng. Đó là sự khác biệt giữa các nhân vật quốc gia, quân chủ, tư bản và cộng sản. Hơn nữa, sự bưng bít có tính cách quốc tế, mọi âm mưu tráo đổi, giả mạo là do quốc tế cộng sản chủ trương, mà đầu não là Stalin và tổ chức Comintern của ông.

+2.Về lai lịch và nhân dạng Hồ Chí Minh, trong tác phẩm " TỪ THỰC DÂN ĐẾN CỘNG SẢN, Hoàng văn Chí viết về vụ Nguyễn Ái Quốc mất tích:

Về phần ông Hồ thì ông bị người Anh bắt ở Hồng Kông cuối năm 1931. Được tha, có lẽ là vào khoảng năm 1932 (không có tài liệu đích xác về ngày ông được tha) ông đi Singapore, bị bắt tại đấy rồi điệu trở về Hồng Kông. Vì bị bệnh lao, hoặc khai là vậy, ông được đưa về bệnh viện rồi đột nhiên ông mất tích. Chính quyền Anh ở Hồng Kông không hề tuyên bố về việc ông Hồ đã biến mất trong trường hợp như thế nào, nhưng có dư luận ngờ rằng ông đã bí mật thoả thuận với mật thám Anh là nếu để ông thoát, ông sẽ giúp họ một việc quan trọng nào đó. Việc này cũng rất có thể vì trước kia ông Hồ đã từng thoả thuận như vậy với mật thám Pháp (Chương 2). Báo Daily Worker, cơ quan của Đảng Cộng sản Anh đăng một tin vắn tắt, nói ông Hồ đã chết vì bệnh lao trong khám đường Hồng Kông nên cả mật thám Pháp lẫn cộng sản Việt Nam đều tin là thực. Năm 1933, mật thám Pháp ghi vào hồ sơ Nguyễn Ái Quốc là đã chết ở Hồng Kông. Không ai biết ông Hồ đi đâu, nhưng có điều chắc là từ ngày ông biến khỏi Hồng Kông cho đến năm 1941 ông im hơi lặng tiếng trên trường chính trị, không hề liên lạc với Đảng Cộng sản Đông Dương  .  (Phần II, ch.3)

Hoàng Văn Chí cũng nói đến việc Nguyễn Ái Quốc đến nhà Nguyễn Khánh Toàn năm 1941. Người ta cũng đưa giả thuyết là ông Hồ đã bị “cấm cố” tại một địa điểm nào đó trong nội địa Liên Xô từ 1933 đến 1941. ..(Phần II, ch.3)
Hoàng Văn Chí đã nói đến nhân dạng của ông Hồ theo mật thám Pháp: 
 
Dư luận bàn tán về lý lịch ông Hồ Chí Minh, nhất là các nhân viên trong tân chính phủ hồi ấy lại càng băn khoăn hơn, và tất cả đều nóng lòng muốn biết rõ ông Hồ là ai và tên thật là gì. Nhưng rồi cũng chẳng phải chờ lâu, vì chỉ mấy hôm sau bắt đầu có tin đồn Hồ Chí Minh là tên mới của Nguyễn Ái Quốc, con người bí mật đã từng “khai sinh ra Đảng Cộng sản Việt Nam”.

Khi nghe tin đồn này, sở Mật thám Pháp đã lập tức lục lại hồ sơ để tìm ảnh Nguyễn Ái Quốc. Theo hồ sơ chính thức thì Nguyễn Ái Quốc đã chết ở Hồng Kông năm 1933. Khi đem so sánh bức ảnh đã phai nhạt của Nguyễn Ái Quốc với những tấm ảnh của ông Hồ bán đầy đường Hà Nội, sở Mật thám Pháp mới biết họ Nguyễn vẫn còn sống, và sau 10 năm ẩn náu trong bóng tối đã trở lại chính trường dưới cái tên Hồ Chí Minh. Các chuyên viên sở Mật thám Pháp quyết đoán Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc mặc dầu sau 20 năm gian khổ, vóc dáng và nét mặt họ Nguyễn có thay đổi rất nhiều. Bằng cớ là vành tai phải của hai bức ảnh đều nhọn, trong khi tai bên trái vẫn đều đặn. Nhưng ông Hồ cứ chối như Cuội, nói rằng mình không phải là Nguyễn Ái Quốc. Ngay cả khi tướng Salan, đại diện Pháp dự cuộc đàm phán năm 1946, hỏi thẳng vào mặt ông Hồ, ông vẫn một mực chối cãi......Việc này được phơi bày công khai năm 1958 khi một phái đoàn nhân viên sứ quán các nước xã hội chủ nghĩa viếng thăm quê hương ông Hồ. Sau cuộc viếng thăm, báo chí Hà Nội đã thú nhận ông Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc. Tạp chí Tranh ảnh Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Việt Nam Thông tấn xã (Bắc Việt) ấn hành, trong số tháng 8 năm 1960, có đăng bức ảnh Nguyễn Ái Quốc với dòng chữ chú thích “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) năm 30 tuổi, đang bôn ba hoạt động ở hải ngoại”. (Phần II, Ch.3)

+3.Trong hồi ký " BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1945-1965 linh mục Cao Văn Luận dẫn lời mật thám Pháp
 "Nếu tôi nhớ không lầm thì hình như ông này tên là Paul Arnoux, từng làm chánh sở mật thám tại Đông Dương dưới thời quan toàn quyền Decoux. Ông có một trí nhớ phi thường. Những phạm nhân quan trọng một lần qua mắt ông đủ để ông nhớ mãi. Sau này để xác nhận Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc chỉ là một, chính quyền Pháp đã nhờ đến ông đi nhìn mặt Hồ Chí Minh. Cái chi tiết làm cho ông Arnoux cam đoan Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Văn Ba, Lão Woong, bác Trần chỉ là một người, là cái tai của họ Hồ.".

2.Tin rằng Nguyễn Ái Quốc đã chết.
 +1.Sophie Quinn Judge có viết trong tác phẩm ‘HCM - những năm tháng mất tích 1919-1941’ đặc biệt trong chương 6 lấy thẳng chuyện HCM "chết ở HongKong và được chôn ở Mạc tư Khoa " làm tựa, đưa ra nghi vấn đối với "điều bí ẩn trong sự sống và chết của HCM". 

Nghi vấn của Sophie Quinn Judge có y cứ vào những thông tin từ báo chí truyền thông thời bấy giờ không thể xác định được vì chẳng hề có tư liệu bằng chứng nào cả. Song, năm ấy thật sự có những tờ báo của đảng CS quốc tế, thay nhau loan bố tin NAQ chết vì lao phổi. Như là báo Chân Lí của đảng CS quốc tế, báo Nhân Đạo của đảng CS Pháp, báo Công nhân của đảng CS Anh quốc và nhóm sinh viên VN của đại học Đông Phương ở Mạc tư khoa còn cử hành lễ truy điệu NAQ từ trần, đảng CS quốc tế phái cả đại biểu đến chia buồn.

+2.Trang 74-75 trong sách "HCM tại TQ" của giáo sư sử học Đài Loan Tưởng Vĩnh Kính có chép:
Đầu năm 1932 Nguyễn Ái Quốc đến Singapore, lại bị chính quyền Anh bắt đưa về lại HongKong rồi từ đó mất tích, chính quyền Anh không hề nói ra tình trạng mất tích, Sau khi mất tích, báo chí khắp nơi loan bố NAQ bệnh phổi nặng và chết trong ngục. Những tờ báo này, bao gồm luôn cả báo của chính quyền Pháp Việt thực dân lúc bấy giờ, cùng với các cơ quan báo chí của các nước CS …(các tờ báo như trên) đều tuyên truyền NAQ đã bệnh chết

+3.Sách HCM Truyện (HCM - a Life) của giáo sư William Duiker trang 209 và 212 ghi:
Vào ngày 11 tháng 8 năm 1932 CS quốc tế trong tờ Công nhân nhật báo phát hành ở London loan tin NAQ đã chết trong tù. ……

II. HỒ TUẤN HÙNG

Năm 2008, Hồ Tuấn Hùng đã xuất bản tác phẩm 
 " HỒ CHÍ MINH SINH BÌNH KHẢO" do Bạch Tượng Văn Hoá ở Đài Loan xuất bản lần thứ nhất tháng 11 năm 2008, tổng cộng 342 trang với nhiều hình ảnh, nội dung khẳng định Hồ Chí Minh (1890-1969),  chỉ là một người Đài Loan giả dạng người Việt lãnh đạo đảng Cộng Sản.

Đây là một khám phá mới vô cùng khó khăn vì đa số " ngựa quen đường cũ", đã theo  "tín ngưỡng "xưa, sùng bái "thần tượng " cũ mất rồi cho nên có phải người phủ nhận nhẹ nhàng, có kẻ chống đối  ra mặt.
Hồ Tuấn Hùng sinh năm 1948, người Miêu Lật, Đài Loan, tốt nghiệp ban Sử trường đại học quốc gia Đài Loan, đã từng dạy học gần 30 năm.Tác phẩm gồm 6 thiên:
Thiên thứ nhất: Màn kịch thay long đổi phượng . Sự thật về cái chết của Nguyễn Ái Quốc Nguyên uỷ của việc Nguyễn Ái Quốc chết rồi sống lại Thiên thứ hai: Việc thật giả của kế Kim Thiền Thoát Xác 
 Thiên thứ ba: Những năm tháng phiêu bạt giang hồ (Phiêu bạc lưu lãng đích tuế nguyệt)
Hồ Chí Minh tại Trung Quốc (Hồ Chí Minh tại Trung Quốc) (1938-1945)
Thiên thứ tư:
Khúc tình ca nhân duyên đầy đau khổ (Hôn nhân luyến tình đích bi ca)
Thiên thứ năm:
Bản văn Nhật Ký Trong Tù và bản di chúc.
 Thiên thứ sáu: Lời kết.

III. NGUYÊN NHÂN THÚC ĐẨY TÁC GIẢ VIẾT "HỒ CHÍ MINH SINH BÌNH KHẢO":

 Nguồn gốc là tin đồn trong dân chúng Đài Loan .
Trước đây vào khoảng thập niên 1960... cũng đã có một đảng viên Quốc Dân Đảng, trong một kỳ tế tổ từng hỏi cha tôi: "Hồ Chí Minh là người liên hệ với các ông thế nào?" đủ biết lúc ấy đã có tin đồn Hồ Chí Minh là người Miêu Lật nhưng chỉ lưu truyền trong họ Hồ gốc Miêu Lật, Quảng Đông mà thôi.
 
Một vị thầy thuốc họ Hà người Miêu Lật sang Đài Loan chơi cũng cho hay: Năm 1945, ông ta đi theo quân đội Quốc Dân Đảng sang Hà Nội [tức quân đội của Lư Hán sang tiếp thu và giải giới quân đội Nhật], có nghe phong thanh từ một người bán thịt lợn  cho hay là Hồ Chí Minh gốc người Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan. [HCMSBK, trang 17]
.

Sử gia đi khám phá sử tích nhiều khi do tình cờ , nhiều khi do truyền thuyết dân gian, nhiều khi là do sách vở đời trước như Kinh Thánh ghi lại. Công việc của Hồ Tấn Hùng cũng là việc thường của sử gia.

 Từ tin đồn trong dân chúng, Hồ Tuấn Hùng khẳng định rằng Hồ Chí Minh [ Nguyễn Ái Quốc] đã chết từ năm 1932 vì bệnh lao, theo báo cáo của nhà đương cục Anh tại Hương Cảng là đúng sự thực và sau đó là Hồ Tập Chương, một người Đài Loan đồng tộc với tác giả giả dạng theo cái kế mà người Trung Hoa gọi là "thâu long chuyển phượng" và "kim thiền thoát xác".

IV. NHỮNG KHÓ KHĂN KHI NGHIÊU CỨU VỀ NGUYỄN ÁI QUỐC (HỒ CHÍ MINH)

Trước tiên, Hồ Tuấn Hùng nêu lên những khó khăn khi nghiên cứu: Người ta biết năm 1932, Nguyễn Ái Quốc chết, sau đó bặt tăm, không tìm ra mối manh cho nên một số đã theo tin Cộng sản quốc tế và cộng sản Việt Nam loan truyền Nguyễn Ái Quốc vẫn còn sống và đóng vai Hồ Chí Minh:
Những nhà văn (sử gia) viết tiểu sử nghiên cứu về Hồ Chí Minh, tuy đối với những (sách vở) ghi chép về cuộc đời của Nguyễn Ái Quốc sau năm 1932 rất ư ngờ vực, thậm chí nảy sinh hoài nghi về thân phận của ông. Song dù có nghi ngờ đến đâu đi nữa (các sử gia này) vẫn không có cách nào tiến thêm bước nữa trong việc xác thực cái chết của Nguyễn Ái Quốc, địa điểm chôn cất, mà ngay cả bối cảnh thân phận của Hồ Tập Chương người tiếp tục thay thế Nguyễn Ái Quốc ra sao đều mù mịt không biết. Do đó những học giả chuyên gia nghiên cứu về Hồ Chí Minh cuối cùng chỉ đành chọn dùng những tư liệu của chính phủ Việt Nam như "Cuộc đời Hồ Chí Minh" (tựa tiếng Trung: HCM truyện, HCM- a life) hay "Những tài liệu lịch sử liên quan đến Hồ Chí Minh" ..v..v... để hợp lí hóa rằng Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc. Bởi thế, càng truyền càng sai làm cho thân phận thực sự của Hồ Chí Minh và câu chuyện về cuộc đời của ông thật giả khó phân, để lại cho người đời quá nhiều điều bí ẩn và nghi hoặc.

V. NHỮNG CHỨNG CỚ BỊ CỘNG SẢN BÓP MÉO:

Hồ Tuấn Hùng đưa ra những chứng cớ sau:
Khi đã kiểm nghiệm sâu sát tận tường những ghi chép về cuộc đời Hồ Chí Minh từ 1933 đến 1945 thì có không ít chứng cứ nghịch lý với những sự thật đã xảy ra và (nhiều chứng cứ cho thấy) sự thật lịch sử về Hồ Chí Minh đã bị cắt xén bóp méo. Ví dụ như là 
(1) vào năm 1933, người từ Hạ Môn (Xiamen) đến Thượng Hải để đi Mạc Tư Khoa không hề phải là Nguyễn Ái Quốc mà là một người khác. 
(2) Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh mỗi người có những chuyện tình và hôn nhân khác nhau. 
(3) Tác phẩm Nhật ký trong tù không phải của Nguyễn Ái Quốc viết. ... tất cả đều rõ ràng dễ thấy, lại còn có nhiều Nguyễn Ái Quốc bị coi như là Hồ Chí Minh, sự thật được dẫn chứng không hề mâu thuẫn đủ để cho thấy Hồ Chí Minh là Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Ái Quốc. Hai người vốn không là một. 

Do đó chứng thực Nguyễn Ái Quốc đã thật sự chết vào năm 1932. Đã chết rồi mà sống lại là do có người cố ý âm mưu bày trò "mượn xác hoàn hồn", "chuyển hoa ghép cây" (lật lờ đánh lận con đen).(Chương 1)

VI. NGUYÊN DO CÁI CHẾT CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG NĂM 1932: HO LAO

 Tác giả tin rằng Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh ho lao năm 1932, vì lúc này các báo chí cộng sản đã loan tin và sinh viên cộng sản  Việt Nam tại Mạc Tư Khoa đã làm tang lễ Nguyễn Ái Quốc:

Nguyễn Ái Quốc có bệnh phổi lâu năm, vào tháng 6 năm 1931 bị cảnh sát HongKong bắt và chuyển đến bệnh viện của nhà tù để điều trị. Đầu năm 1932 có tin đồn bị mất tích tung ra từ Hồng Kông, khoảng tháng 7 tháng 8 giới truyền thông báo chí đưa tin bị chết vì bệnh ho lao. Những tin này rất phổ biến mà mọi người vào năm đó đều biết. 

Báo chí thời bấy giờ của Hồng Kông, Anh Quốc, Pháp và Nga Sô đều tung tin sau khi Nguyễn Ái Quốc từ Singapore trở lại Hồng Kông không rõ nguyên nhân vì đâu mất tích rồi sau bệnh chết. Sinh viên Việt Nam ở Đại học Đông Phương Mạc Tư Khoa (Moscow) còn đặc biệt làm lễ truy điệu và tang lễ cho ông và đảng CS quốc tế phái cả người đến chia buồn. 

Trong tài liệu hồ sơ của NAQ năm 1933 của Cảnh sát an ninh Pháp cũng ghi rõ ràng NAQ bệnh chết đến nỗi 10 năm sau tình báo viên của Pháp báo cáo với chính phủ thực dân rằng Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở biên giới Trung-Việt. Chính phủ trả lời: "Vô lí, cái thằng điên đưa tin bậy bạ, đầu thập niên 30 (1930) NAQ đã chết ở Hồng Kông rồi!"

Những tài liệu nguyên thuỷ về sự việc trên vẫn còn rành rành trước mắt và đều được báo chí thời đó ghi chép, là tư liệu lịch sử đầu tiên nắm giữ sự thật mà mọi người lúc ấy đều không nghi ngờ gì nữa. Trong vòng mười năm đó (1932-1941) Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn mất tích, không có một dấu vết gì trên "sân khấu lịch sử". 

Trong mười năm đó tất cả ghi chép về bất kỳ hoạt động nào của Nguyễn AQ đều là của một HCM tự xưng là Nguyễn ái Quốc. mà là những tư liệu được quay lại bổ túc thêm sau này. ..

Hồ Tuấn Hùng còn đi tìm các thư tín liên quan đến bệnh lao của NAQ.

 Y cứ hồi kí của đảng viên Việt Cộng Lí Đức Phương: "Năm 1925-1927 NAQ ở Quảng Châu 900 ngày lao lực hơn bình thường, làm việc cả ngày lẫn đêm, đem chất lên ắt nhiều như núi, từ sáng 5 giờ làm đến 2 giờ khuya. 

Sức khoẻ không tốt, ho rất nhiều, có khi ho ra cả máu." Năm 1930 từ tháng 7 đến tháng 9 NAQ gửi 6 lá thư cho Viễn Đông Cục kể rõ việc mình bị hành bởi cơn bệnh lao phổi. 

Ông đem bệnh tình diễn tả như sau: "Phổi rất khó chịu, lại ho ra máu, thân thể rất là hư nhược mệt mỏi." Cuối tháng 11 năm 1931 NAQ viết thư gửi đồng chí Lâm Đức Thụ trong Liên minh thanh niên cách mạng rằng: "Thân thể tôi sức khoẻ đã đến hồi đáng ngại, thường xuyên ho ra máu. Cứ thế tiếp tục tôi e phải chết trong tù mất thôi." Năm 1932 tình báo của Anh Quốc Long Paul lúc dùng thủy phi cơ giúp đỡ NAQ trốn khỏi HongKong thấy: " NAQ rất yếu, chẳng ngừng ho hen, chừng như không còn đủ sức để nói chuyện." 
Những gì ghi trên đây đều là kể trước lúc NAQ từ Hongkong trốn đi Thượng Hải, với bệnh tình nghiêm trọng như thế kia khi phải trải qua bao gian khổ lúc đi thuyền, lúc đi thuỷ phi cơ liệu có thể chịu đựng được không? 

Huống hồ gì sau khi lên bờ, đảng Quốc dân ở Thượng Hải cùng với cảnh sát ở tô giới của Anh và Pháp như cọp chăm chăm canh chừng tất cả hoạt động của đảng CS, NAQ cũng sẽ tự nhiên không dám lộ mặt đi tìm nơi cứu chữa bệnh tình, chỉ có thể cố gắng chịu đựng đến Mạc Tư Khoa. Chuyện bệnh chết ở Mạc Tư Khoa là khá có thể vậy. 

Vì thế, báo chí của đảng CS các nước sau khi tờ báo Chân Lí của Liên bang Sô Viết đưa tin trước tiên thì đến tờ NHân Đạo của đảng CS Pháp, tờ Công nhân của đảng CS Anh thay phiên nhau liên tiếp trong tháng 7 tháng 8 năm 1932 báo tin NAQ chết vì bệnh lao phổi và du học sinh Vn tại Nga cử hành tang lễ cho NAQ. 

Theo đây suy luận "NAQ bệnh chết trên đường đến Mạc Tư Khoa và được mai táng ở Mạc Tư Khoa" thì có thể xác nhận là sự thật, tuyệt chẳng phải là cái chết giả như HCM biện minh đó chỉ là cái cớ để dễ bề đào vong thì có thể dễ dàng chôn vùi chân tướng của sự thật.
HCMinh sau hơn 10 năm (xuất hiện trở lại) phủ nhận mình chết vì ho lao, biện minh rằng năm ấy vì phương tiện muốn đào vong nên cố ý ngụy tạo tin đã bệnh chết. Những cấp cao của đảng CS quốc tế, Trung Cộng và Việt Cộng một mặt toàn lực che đậy những hoạt động của HCM (Hồ Tập Chương) từ năm 1929 đến 1933, một mặt không ngừng truyền tin giả rằng HCM tức là Nguyến Ái Quốc để làm NAQ sống lại trên sân khấu lịch sử. 

Ví dụ vào năm 1933 vì để tạo ấn tượng giả rằng NAQ vẫn còn sống mà tung tin NAQ cùng với người bạn Pháp Paul Vaillant Couturier gặp gỡ nhau tại Thượng Hải với ý đồ muốn người đời tin là NAQ vào năm 1933 vẫn hoạt động ở Thượng Hải diễn thành màn "chuyển hoa ghép cây". Muời năm sau khi NAQ bệnh chết, ngày 6 tháng 6 năm 1941 Hồ Chí Minh lần đầu tiên xuất hiện công khai với tên NAQ phát biểu thư hiệu triệu toàn quốc đồng bào, kêu gọi nhân dân VN đứng lên cách mạng làm tròn nhiệm vụ xây dựng độc lập cho đất nước

 Từ đó, NAQ vốn im lặng trong mười năm trường, đã bị thế nhân quên rồi trong ý thức chợt hồi sinh và xuất hiện trở lại trên sân khấu lịch sử. Và rồi HCM đem chuyện đời của mình những ngày tháng "chuyển hoa ghép cây" sau khi NAQ đã chết ngụy biện rằng:

"Mùa xuân năm 1932 sau khi mất tích ở HongKong, trốn đến Hạ Môn dưỡng bịnh nửa năm. Đầu năm 1933 từ Hạ Môn đến Thượng Hải, cùng năm ấy mùa xuân từ Thượng Hải đến Mạc Tư Khoa." Từ ấy, ve sầu thoát xác tạo nên một HCM - tức là nhân sinh mới của NAQ...(Chương I)
VII. NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ HỒ TẬP CHƯƠNG

Hồ Tập Chương sinh năm 1901 (năm Minh Trị thứ 34 của Đài Loan) ngày 11 tháng 10 âm lịch. (trang 103) Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 (hai người cách nhau 11 tuổi).Phụ thân Hồ Tập Chương là Hồ Dần Lượng, những năm đầu Quốc dân cũng từng mở trường dạy học tại quê nhà.Vào đầu năm 1939, Hồ Tập Chương gặp người em ruột là Hồ Tập Dưỡng lần cuối cùng, sau đó thì không nhận được tin tức gì của gia đình nữa.
Nhân vì nhiệm vụ công tác (của HTC) với NAQ rất trùng nhau, lại đã từng tham gia trong việc trù bị thành lập đảng CSVN. Đảng CS quốc tế mới yêu cầu HTC thay thế thân phận của NAQ, tiếp tục tham dự vận động giải phóng của đảng CSVN. Hồ Tập Chương với bí danh P.C Lin từng thọ 5 năm giáo dục cải tạo của đảng CS quốc tế, có bí danh Hồ Quang,   mà Nguyễn Ái Quốc cũng có bí danh P.C.Lin và Hồ Quang.

Hồ sơ ghi chép về bệnh tình của NAQ và HCM
Hồ sơ bệnh lý của hai người khác nhau. NAQ bị lao, còn HCM (Hồ Tâp Chương) bênh tim. Bênh lao của NAQ đã trình bày ở trên. Đây nói về bệnh lý của HCM.
Chủ tịch đoàn trung ương Việt Nam đặc biệt công bố: "Chủ tịch Hồ Chí Minh bệnh tim nghiêm trọng đã từ trần ngày 3 tháng 9 năm 1969 lúc 9 giờ 47 phút." Đây quả thật là một điều dối trá, tin Nguyễn Ái Quốc tháng 8 năm 1932 được truyền ra chết vì lao phổi nghiêm trọng, mà Hồ Chí Minh trong 37 năm sau không hề thấy có một ghi chép nào về sự điều trị bệnh tình ho lao rồi lại chết vì bệnh tim trầm trọng. 

Đây là một chuyện rất ư kỳ lạ! Để tìm giải thích hợp lí hơn, mùa hạ năm 1932 NAQ xác định chết vì bệnh lao, HCM tháng 9 năm 1969 chết vì bệnh tim, (tác giả) lấy năm 1933 làm thời gian phân điểm, nhìn rõ lại và so sánh hai thời gian trước và sau đã phát hiện ra quả nhiên tình trạng sức khoẻ được ghi chép không đồng.(Thiên I, Ch.1)


Qua các tài liệu, ta thấy tin tức không thống nhất, lúc thì bảo là chết tại nhà tù Hongkong năm 1932, lúc lại nói Nguyễn Ái Quốc chết tại Mạc Tư Khoa cuối năm 1932? Lúc thì bảo là cộng sản tung tin, lúc thì bảo là mật thám Anh và Pháp tung tin? Mật vụ Anh thả Nguyễn Ái Quốc để làm gì? Tài liệu về bệnh lao thì quá đủ nhưng có chữa lành không? Nhưng NAQ chết thì chôn tại đâu? Ai biết và có tài liệu nào ghi chép, chúng ta hoàn toàn hụt hẫng.
Lỗi này do sử liệu, không do tác giả. Cả hai phía đều tung hỏa mù cho nên vô cùng tối tăm, khiến chúng ta cũng bối rối.


   Hồ Tuấn Hùng cho biết nhiều vấn đề:
Ho lao ra máu trong tình trạng thuốc men khoảng 1930 tại Nga là một xứ vô cùng lạnh lẽo, thì khó mà sống. Nhất là sau khi trốn thoát, phải ẩn náu, phải liên tiếp đi nhiều thì vô cùng bất lợi cho một kẻ bị bệnh lao, vốn cần an tĩnh, cần bác sĩ săn sóc và cần cóđầy đủ thuốc men.
+Theo Hồ Tuấn Hùng, có tin đồn rằng Luật sư Frank Loseby cố ý đưa tin NAQ chết là muốn tung hỏa mù để NAQ dễ dàng trốn thoát.. NAQ trốn thoát là do Cơ quan Mật vụ Anh tìm cách bí mật thả Nguyễn Ái Quốc có lẽ là vì NAQ đã hứa hen cộng tác với Cơ quan Mật vụ Anh  như Hoàng Văn Chí viết. Đây là một kế thâm độc của Mật vụ các nước. Họ chiêu dụ người đối phương, họ thấy NAQ sắp chết nên thả ra để tìm đường dây cộng sản, họ mượn tay Nga thủ tiêu NAQ...Việc này đã xảy ra cho NAQ trước đây cũng như cho các điệp viên. Khi về Nga và bặt tăm gần 10 năm có lẽ NAQ bị Stalin nghi ngờ giam ở đâu đó. 

Đây cũng là điều thông thường trong chế độ cộng sản, những điệp viên, những đảng viên bị bắt rồi được kẻ thù phóng thích thì được đảng ưu ái giữ lại thẩm tra tra thừa chết thiếu sống, có thể bị xử tử vì bị nghi là phản bội, là tiết lộ tin tức, là cộng tác với kẻ thù. ( Xem ĐOÀN DUY THÀNH * HỒI KÝ ) (1). Nếu NAQ bi Stalin nghi thì e khó sống sót trong bàn tay sắt của KGB vì chủ trương giết lầm hơn bỏ sót của cộng sản mà khởi đầu từ Nga.

V. HÌNH ẢNH NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ HỒ CHÍ MINH

Tiếp theo, tác giả trình bày một số hình ảnh của Hồ Tập Chương và Nguyễn Ái Quốc. Nhìn qua các hình của Hồ Chí Minh ta thấy có nhiều điểm khác nhau , khó tin là một người. Phải chăng đó là những người khác nhau hay một người mà qua năm tháng đã có nhiều thay đổi. Việc này, người thường khó biết. Phải là tay an ninh chuyên về nhân dạng, chữ ký, dấu tay và xét ADN thì mới chính xác.

  Hồ Tuấn Hùng đưa ra những hình ảnh sau:
Ảnh hồ sơ của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương 





(hình 1 và 2 từ trái sang phải)


 và Hồ Tuấn Hùng có những nhận xét sau:
(hình 3,4,5 và 6 từ trái dọc xuống và sang cột phải là hình 6 của HCM trước năm 1933, phần chú thích ở dưới)(Trang 108)
[Theo tác giả]: Nếu từ diện mạo bên ngoài của bức ảnh để phân biệt thân phận của một người thì theo nhận xét chủ quan của cá nhân tôi, nhất là khi tấm ảnh cách nhau một hai thập kỷ, muốn phân biệt Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hai người khác nhau thì có lẽ rất khó khăn, đặt biệt là khi người phương tây nhìn người phương đông càng không dễ dàng gì (thấy sự khác biệt).

 Khuôn mặt bề ngoài của một người dù theo thời gian có đổi thay nhiều đi chăng nữa nhưng hình dạng và đường cong của đôi tai tuyệt đối không dễ thay đổi. Riêng về các đường cong và phần trái tai của Nguyễn Ái Quôc và Hồ Chí Minh thổ lộ nhiều điểm khác nhau rất rõ ràng, và có thể dùng đó làm bằng chứng rằng hai người thân phận khác nhau. Mời độc giả xem kỷ và nhận dạng.
Tấm ảnh trong hồ sơ của Nguyễn Ái Quốc phía bên phải (William Duiker, Hồ Chí Minh truyện) chưa ghi rõ thời gian xuất xứ. Còn trong cuốn "Các nguyên thủ quốc gia nước ngoài tại Trung Quốc trong cuộc chiến chống Nhật" của sử gia Trung Quốc Tào Tấn Kiệt có ghi chú là ảnh chụp tại Quảng Châu vào mùa xuân năm 1925. Tấm ảnh này cùng với tấm ảnh của Hồ Tập Chương phía bên trái thường xuyên xuất hiện bên nhau để hỗ trợ cho sự liên kết diện mạo bên ngoài của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương). 

Như hình trên: bên trái là Nguyễn Ái Quốc, bên phải là Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) [hình trang 109 đầu tiên trong entry này]. Người viết cho rằng tấm ảnh này của Nguyễn Ái Quốc thật ra là tấm ảnh giả, đặc biệt là tai bên trái sự sai lệch rất rõ ràng. Vì ý đồ muốn tạo sự liên kết giữa Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh (để cho thấy hai người) là một nên mượn dùng tấm ảnh của Hồ Tập Chương chụp tại Mạc Tư Khoa năm 1934. Song qua sự đối chiếu so sánh từ nhiều tấm ảnh của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) thấy được hai người diện mạo bên ngoài có nhiều khác biệt. (coi hình 1 và 2 + chú thích)

Chú thích hình ảnh trang 109, 110
1. Bức ảnh này được chụp ở Pháp, 1923, sách về HCM của William J. Duiker
2. Như trên tại Liên bang Nga Sô
3. Tấm này có nghi vấn, không ghi chú thời gian xuất xứ. do William chụp
4. Tấm ảnh này của NAQ chụp lại từ Viện triển lãm HCM tại VN
5. Tranh vẽ của thân phụ của NAQ - Nguyễn Sinh Huy - từ cuốn Cuộc đời HCM của William J. Duiker.
6. Tấm ảnh này chụp tại Liên bang Nga Sô năm 1924 từ sách HCM những năm tháng mất tích 1919-1941 (HCM the missing year 1919-1941) của thẩm phán Sophie Quinn.




(hình HCM sau năm 1933, hình 1,2,3 và 4 từ cột trái dọc xuống rồi sang phải)
Trang 111
1. Tấm ảnh này từ sách của William J. Duiker, HCM chụp tại Mạc tư khoa năm 1934.
2. Ảnh Thân phụ của Hồ Tập Chương, Hồ Dần Lượng (do người nhà cung cấp)
3. Ảnh này do Andred Roth chụp tại Bắc Việt năm 1946, trong sách Tân Việt Nam.
4. Ảnh này chụp tại Bắc Việt năm 1954 trong sách "Vĩ nhân chính trị khai sáng thời đại - HCM, bản tiếng Trung.
 

 
  Hai câu dưới đây là thông tin nhi trích thêm để mọi người biết xíu xiu về tuổi tác HTC với NAQ.
(Trang 100) - Hồ Tập Chương sinh năm 1901 (năm Minh Trị thứ 34 của Đài Loan) ngày 11 tháng 10 âm lịch. (Trang 103) Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 (hai người cách nhau 11 tuổi)
( Thiên I, ch.1)


 Không biết khoa thẩm mỹ trước đệ nhị thế chiến  có sửa được tai, mũi, mắt, tạo  vết thẹo  không? Nếu khoảng 1930,  Nga có được tài giải phẩu thẩm mỹ thì chúng ta lầm chết thôi! Xem ảnh Hồ Chí Minh khoảng 1945, ta thấy mặt mũi khác nhau. Ông Hồ khoảng 1945 có tai lép, mặt mũi như quỷ đói, lộ vẻ nham hiểm, còn ông Hồ sau này tai to, tai vễnh,  mặt béo, tướng mạo hiền hậu. Phải chăng sau này ăn uống sung sướng mà thành ra khác trước hay đó là nhân dạng khác nhau của những người khác nhau đội lốt Hồ Chí Minh để đánh lừa quốc dân?

Tuy nhiên, với những hình ảnh của Hồ Tuấn Hùng và của lịch sử Việt Nam, ta có cảm giác có những ông Hồ khác nhau tại Việt Nam như nhiều người đã lên tiếng tố cáo những mặt Hồ Chí Minh giả mạo. Nhã Thanh Sử  đã đưa ra những nhận định:
  "Hồ Chí Minh" không phải là một người, mà tất cả là "5 người gồm 1 Thật và 4 Giả".
 

 1945-1946
1946-1953
 
 1953-1965

 1965-1969
  
1969
(HCM, XXI) 

 Đây là lời bình luận và  hình của Chân Mây:

Sự thật thì có rất nhiều ông HCM, ông Hồ vào năm 1911 đi theo Tàu Pháp kiếm việc đã mất từ năm 1953 , sau đó Trung Quốc ngụy tạo một nhân vật đưa vào VN lãnh đạo, nhân vật nầy tương đối giống ông Hồ nhưng tướng tá mập hơn . Ông Hồ thứ hai đã ra lệnh chôn sống, ném đá chết hằng chục nghìn người lúc bấy giờ . Nhiều gia đình có công với cách mạng trong thời kỳ Điện Biên cũng bị giết không tha . Sau đó thì ông Hồ nầy có lên Đài xin lổi, khóc lóc cho là phong trào Cải Cách Ruộng Đất đi sai đường lối .

Vào năm 1965 ông Hồ thứ hai cũng già nua và chết, lần nữa Trung Quốc lại cho phẩu thuật một người VN tương đối giống ông Hồ để lên ngồi chức chủ tịch . CS lúc bấy giờ đang dấy động phong trào chống Mỹ nên họ không thể đưa tin ông Hồ bị chết được . Ông Hồ thứ 3 không giống lắm, vì khó tìm được một người khác với số tuổi lớn mà giống nhưng ông Hồ nên đảng CS cho thủ tiêu ông Hồ giả thứ 3 vào năm 1969, sau đó họ cho làm tang lễ toàn quốc để che đậy sự việc nầy .

 

  (HCM, XXXV).

Những ý kiến trên khác nhau, nhưng dẫu sao cũng đưa đến một ý kiến thống nhất là có Hồ Chí Minh giả mạo.

VI.HỒ CHÍ MINH ÁI TÌNH LỊCH SỬ

 Xem tình sử Hồ Chí Minh, có lẽ nhiều người phải mờ mắt, ù tai vì "bác" có nhiều đàn bà quá. Nhưng Hồ Tuấn Hùng thì khác. Ông bình tĩnh nghiên cứu rồi xếp đặt các hình ảnh trong bộ sưu tập đời "bác", rồi trình bày theo lối biên niên sử :

 1 – Năm 1921, NAQ ở trọ tại biệt thự Qua Bách Lâm thủ đô Paris nước Pháp, (Gobelins (avenue des), một đại lộ thuộc Quận XIII, Paris, nơi có nhà riêng của luật sư Phan Văn Trường, cho ông Phan Chu Trinh tá túc, rồi thêm Nguyễn Tất Thành) làm quen với một thiếu nữ người Pháp là cô Briere. Cảnh sát xác nhận cô này là tình nhân của NAQ.

2
– Năm 1925, tại Quảng Châu, NAQ quen biết một thiếu nữ Trung Quốc là Tăng Tuyết Minh, năm 1926 hai người kết hôn. Sau khi kết hôn hai người ở trong biệt thự của Mikhail Borodin. . Từ tháng 4 năm 1927, tuy NAQ đã rời TQ, vẫn còn chưa mất hết dấu tích, chứng cứ là, vào năm 1930, TTM ngẫu nhiên gặp lại chồng ở Hương Cảng nhưng cuối cùng quan hệ giưa hai người vẫn không nối lại.

3
– Năm 1930, tại Hương Cảng, NAQ mang theo từ Việt Nam một người đồng hương đồng thời là người yêu của ông ta tên Nguyễn Thị Minh Khai. Mùa xuân năm 1931, NAQ và NTMK cử hành hôn lễ đơn giản tại nhà khách qua sự chứng kiến của các đồng chí đến từ Tây Cống (Saigon, theo âm Quảng Đông) và Đông Kinh.

4
– Năm 1935, Mạc Tư Khoa triệu tập Hội nghị lần thứ 7- QTCS. Thời gian này NAQ bị bệnh đã qua đời, NTMK với tư cách là vợ của NAQ, khi đến Mạc Tư Khoa, ghi trong tờ khai là đã kết hôn với một người đồng chí có tên PC. Lin. Hội nghị kết thúc, NTMK ở lại Liên Xô, đến phòng đăng ký giá thú làm thủ tục kết hôn với Lê Hồng Phong, là người lãnh đạo mới của Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD).

5
– Cuối năm 1944, HCM trở lại căn cứ địa cách mạng Bắc Kỳ. Trong số 18 cán bộ nòng cốt theo HCM về VN có một phụ nữ là Đỗ Thị Lạc . Tại Cao Bằng, HCM và ĐTL sống chung với nhau một thời gian.

6
– Năm 1955, một thiếu nữ xinh đẹp người Nùng, quê Hòa An, Cao Bằng là Nông Thị Xuân (NTX) được cử làm y tá bên cạnh HCM. Hai người sống chung với nhau gần một năm thì cô Xuân sinh hạ một bé trai, lúc đầu gửi Hội Phụ nữ rồi Chu Văn Tấn chăm sóc, sau này thư ký riêng của ông Hồ là Vũ Kỳ bí mật nhận làm con, nuôi dưỡng tại nhà mình.

7
– Năm 1965, nhân việc Đào Chú, một yếu nhân của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đồng thời là bạn thân của HCM viếng thăm Hà Nội, ông Hồ có nhờ Đào Chú tìm giúp một phụ nữ từng quen biết thời trẻ ở Quảng Đông là Lâm Y Lan để nối lại tình xưa nghĩa cũ. Họ Đào trở về TQ báo cáo việc này với Tổng lý Chu Ân Lai, tuy nhiên quan hệ ngoại giao hai nước lúc ấy không còn mặn mà như trước vì cuộc “Đại Cách Mạng văn hóa” nên đề nghị của ông Hồ tạm thời bị xếp lại.(Thiên I, ch.1)

Sau 1950, Tăng Tuyết Minh đọc báo, thấy tiểu sử của Hồ Chí Minh, tưởng là người cũ, bèn tìm cách nối lại, nhưng đảng Cộng sản Trung Quốc không cho TTM gặp HCM vì e đổ bể việc gian trá của họ. Hồ Tuấn Hùng viết:

Trong “Thê thiếp, nhân tình của Hồ Chí Minh”, “Lĩnh Nam di dân” viết: “Tháng 5 năm 1950, Tăng Tuyết Minh đọc “Nhân Dân Nhật Báo” mới biết người chồng xa cách hơn hai mươi năm là Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước VNDCCH. Bà đã mấy lần gửi thư đến Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh cho Hoàng Văn Hoan nhưng không bao giờ nhận được hồi âm. Sau năm 1954, TTM lại đề nghị với nhà nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa sang Hà Nội gặp HCM nhưng cuối cũng vẫn bị lãnh đạo Trung Cộng cự tuyệt.

Theo tinh thần của bài viết, rõ ràng cho thấy, NAQ của năm 1926 và HCM của năm 1950 là không cùng một người. Trung Cộng và Việt Cộng vì muốn che dấu thân phận thật của HCM nên không dám dể TTM gặp mặt ông ta. Người chủ trì hôn lễ lúc ấy là Thái Sướng và Đặng Dĩnh Siêu biết rõ HCM năm 1950 không phải là NAQ (Lý Thụy) năm 1926, chỉ biết giả câm giả điếc, biết rõ TTM đau khổ mà không làm gì được.
(Thiên I, ch.1)



Hồ Chí Minh không nhắc gì đến Tăng Tuyết Minh vì Tăng Tuyết Minh là vợ của Nguyễn Ái Quốc.
Còn chuyện tình Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan là chuyện tình xảy ra cho Hồ Chí Minh trong khoảng 1938. 
Hồ Tuấn Hùng thuật lại như sau:
Trong “Mối tình nồng thắm giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan” có đoạn viết: “Năm 1958, bên bờ sông, tại Hà Nội, hai ông già thong thả buông cần câu cá, đó chính là Hồ Chí Minh và Đào Chú. Hồ Chí Minh thần sắc khác thường trịnh trọng nói với Đào Chú: “Trung Quốc có câu ‘Lúc trẻ là vợ chồng, về già là bạn’. Tôi và Lâm Y Lan quen biết nhau đã hơn 20 năm, vì sự nghiệp cách mạng đành gác lại tuổi thanh xuân, giờ muốn đón Y Lan sang Hà Nội, bí mật cử hành hôn lễ để thỏa nguyện mong ước bấy lâu”.(Thiên I, ch.1)

Nhưng lúc này, phe Lê Duẩn, Lê Đức Thọ đang khống chế ông Hồ , họ tính đưa Nguyễn Chí Thanh lên làm chủ tịch, và cho ông già vào ban "nghiên cứu lịch sử đảng". Bất ngờ, Nguyễn Chí Thanh chết (1967), không biết có phải do đàn em ông Hồ hạ thủ hay không? Sự xung đột phe phái này phải chăng Lê Duẩn đã biết rõ âm mưu của Mao muốn khống chế Việt Nam nên đã không chế ông Hồ rồi hạ màn Hồ Chí Minh vào năm 1969? Họ biết họ đã chịu đựng một ông Tàu sang Việt Nam làm vua nay lại thêm một hoàng hậu Trung Quốc nữa thì quá lắm cho nên họ từ chối Lâm Y Lan là phải! 

VII. KHẢ NĂNG VIẾT VÀ NÓI HOA NGỮ

 Hồ Tuấn Hùng nêu lên nhiều tài liệu cho biết Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh có trình độ Trung văn khác nhau. Tài liệu ông nêu lên là nhận xét của những người khác, sau đó ông mới đưa ý kiến riêng mà bình luận.
Trước tiên, Hồ Tuấn Hùng nêu lên một Hồ Chí Minh biểu diễn tài viết chữ Hán bằng tay chứ không bằng bút lông hay bút sắt. Đó là trường hợp năm 1959 (HCM, CXL),  Hồ Chí Minh bí mật thăm Lư Sơn:
Trong Hồ sơ Lư Sơn - Hồ Chí Minh bí mật đến Lư Sơn có ghi chép HCM dùng ngón tay viết thư pháp: “Bí thư Đảng uỷ Cục quản lý Lư Sơn Lâu Thiệu Minh, Phó Bí thư Thái Thiệu Ngọc, Giang Vĩnh Đức nghe tin HCM sắp rời Lư Sơn, vội vã kéo nhau đến biệt thự 394, một là để nghe ý kiến HCM về thái độ tiếp đãi khách, hai là đề nghị ghi lưu niệm. Nhận xét về cái gì đây? HCM đề nghị mang nghiên bút để trên bàn. Ông thử bút, cảm thấy ngọn bút hơi nhỏ liền khẽ hỏi:

- Tôi dùng ngón tay viết được không?
Lâu Thiệu Minh gật đầu lia lịa. HCM thong thả nhúng ngón tay vào nghiên mực, viết ba chữ lớn: “Lư Sơn hảo” (Lư Sơn tốt) rồi lùi về phía sau hai bước ngắm nghía. Lâu Thiệu Minh liếc qua, rất khâm phục:

- Thưa Hồ Chủ tịch! Người viết chữ Hán thật tuyệt.

Sau khi viết “Lư Sơn hảo” bằng ngón tay, HCM lại dùng bút tiểu khải viết 10 chữ nhỏ: “Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 1959” vào dòng lạc khoản để kỷ niệm chuyến thăm Lư Sơn.

Căn cứ vào đoạn văn trên thì trình độ thư pháp của HCM thuộc vào loại khá
( Thiên IV,
Chương 1,)
 Cũng đoạn trên, Hồ Tuấn Hùng đưa ra những nhận xét của những tác giả khác về Trung văn, Hoa ngữ của Hồ Chí Minh như sau:

William J. Duiker trong Truyện Hồ Chí Minh, trang 143, lại viết: “Mùa xuân năm 1927, NAQ ở lại Quảng Châu hơn nửa năm, việc trước mắt là ổn định sinh hoạt, sau đó tìm một người vợ địa phương để học tiếng Trung Quốc”.

Trong cuốn Chu Ân Lai và Trung Quốc hiện đại do Han Suyin (Hàn Tú Anh) viết, Trương Liên Khang dịch, trang 84, 85 có đoạn: “Mùa thu năm 1925, có một thanh niên Việt Nam gầy yếu, tự xưng là Nguyễn Ái Quốc, sau này là Hồ Chí Minh... Lúc ấy Thái Sướng và chồng là Lý Phú Xuân đang ở Quảng Châu, do đó hai người đều quan tâm đến HCM. Lý Phú Xuân và Đặng Dĩnh Siêu sắp xếp chỗ ăn ở cho HCM rất chu đáo, đồng thời còn dạy Hồ tiếng Trung Quốc. Không lâu sau, HCM có thể giao thoại được những câu đơn giản”.
 

Từ các tài liệu trên, Hồ Tuấn Hùng  đưa đến nhận định: 
 William J. Duiker cũng như Han Suyin đều viết về HCM, nếu đem so sánh với việc HCM viết thư pháp bằng ngón tay ở Lư Sơn sau này, thì ta sẽ thấy trình độ nghe, nói, đọc, viết của ông ta trước đây khác nhau một trời một vực.
 Khảo cứu quá trình học tập của NAQ, tác giả nhận thấy, cho đến năm 1932, hầu như không thấy ông sử dụng Hán văn trong các bài viết, chưa nói đến trình độ viết thư pháp chữ Hán. Vì sao đến năm 1938, sau khi rời Mạc Tư Khoa về vùng biên giới Việt Trung hoạt động, HCM lại đột nhiên sử dụng Hán văn, viết báo, làm thơ và viết thư pháp một cách thành thạo? Chúng tôi vô cùng nghi ngờ. Có thật NAQ dùng ngón tay viết thư pháp? Có thật ông dùng Hán văn viết Nhật ký trong tù? Phải chăng đây là chứng cứ không thể bác bỏ của thủ thuật “Mượn xác hoàn hồn” (Tá thi hoàn hồn), “Rời hoa tiếp cây” (Di hoa tiếp mộc)?

Suy nghĩ về việc học của Nguyễn Tất Thành, Hồ Tuấn Hùng viết: 

 Về mặt chính thống, ta thường thấy các nhà viết truyện ký về HCM viết tiểu sử sơ khởi của ông như sau: “Nguyễn Ái Quốc sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống nho học. Từ nhỏ ông đã được tiếp xúc với nền giáo dục Hán học nên trình độ ngữ văn Trung Quốc rất cao, làm thơ giỏi, viết thư pháp đẹp”. Mới nghe xem ra có lý, tuy nhiên, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nước Pháp thực dân đã bắt đầu khai thác thuộc địa tại Việt Nam, phần lớn các gia đình quan lại hoặc nhà giàu đều cho con cái sang Pháp du học, đặc biệt là sau khi nhà Nguyễn phế bỏ hệ thống khoa cử lỗi thời để tuyển chọn nhân tài, thì số người còn lưu luyến với nền Hán học không đáng là bao. Cách làm của người cha NAQ là một ví dụ điển hình. Tuy đã từng đỗ đại khoa với học vị Phó Bảng, nhưng ông Nguyễn Sinh Sắc dường như cũng không muốn NAQ theo đòi nghiệp bút nghiên mà lại tích cực ủng hộ con trai học tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ. 

Dựa trên những ghi chép của William J. Duiker và Sophie Quinn-Judge, NAQ từ năm 21 tuổi trở về trước là thời kỳ lưu lạc, cuộc sống cùng khốn, rất khó có điều kiện ổn định học tập. Chúng tôi dùng phương pháp so sánh quy nạp, thống kê quá trình học tập của NAQ tại Việt Nam như sau:

Việc tiếp thụ giáo dục Hán văn tại các trường tư thục không quá 3 năm và Pháp văn không quá 4 năm. Từ năm 1911 đến năm 1923, NAQ bôn ba hải ngoại từ châu Âu, Bắc Mỹ đến Bắc Phi, trước sau có khoảng 4 năm học Anh ngữ trong các môi trường làm việc vất vả, hoàn toàn không có điều kiện tiếp tục học Hán văn hoặc tiếp xúc với văn hóa Hán. Theo Đặng Dĩnh Siêu, vào thời điểm năm 1925, bà có dạy NAQ học tiếng Trung, đến năm 1926 thì ông ta kết hôn với Tăng Tuyết Minh. Sự việc này đúng là có thực. Nói cách khác, đến năm 1927, trình độ nghe, nói, đọc và viết chữ Hán của NAQ rất hạn chế. Từ năm 1928 đến năm 1932, NAQ bôn tẩu khắp nơi, qua Xiêm La (Thailand), Tân Gia Ba (Singapore), sang châu Âu, rồi lại về Hương Cảng, Thượng Hải, thêm chứng bệnh lao phổi kéo dài, lại bị giam trong ngục, tình trạng sức khỏe hết sức kém, rất khó có đủ điều kiện tiếp tục học chữ Hán. 


Từ đó có thể kết luận, trình độ Hán văn của NAQ chỉ dừng lại ở mức độ 3 đến 4 năm cấp tiểu học, tuyệt đối không có khả năng viết báo, tạp chí và những bài nghị luận trường thiên lời văn khúc chiết, đanh thép, không thể là tác giả của Nhật ký trong tù, càng không có khả năng viết thư pháp bút lông hoặc “thư pháp ngón tay” chữ Hán.

Thấy Hồ Tuấn Hùng chê NAQ kém Trung văn, nhiều người bực tức, họ cho đó đó là sự mạ lỵ lãnh tụ "anh minh" của họ, vì đảng đã nói thì ắt trúng:Nguyễn Ái Quốc sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống nho học. Từ nhỏ ông đã được tiếp xúc với nền giáo dục Hán học nên trình độ ngữ văn Trung Quốc rất cao, làm thơ giỏi, viết thư pháp đẹp"
Đảng nói vậy mà thực tế không phải vậy. Việc học sinh ngữ là một việc rất khó cho những người ngoại quốc, nhất là Trung văn, Hoa ngữ. 
Nhận xét của Hồ Tuấn Hùng rất đúng về sự suy đồi của nền Hán học tại Việt Nam . Riêng về Nguyễn Tất Thành lại càng đúng. Nhà nghèo, hằng ngày hai anh em phải lo sinh kế chứ không được học từ lên lên ba, lên bốn như con cái các nho gia khác như Tản Đà. Hơn nữa, vì sinh kế, Nguyễn Sinh Sắc cũng lang bạt, nào phải được êm ả ở nhà dạy bảo con cái! 

 Lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam cho biết khoảng 1901, Nguyễn Tất Thành mới theo cha đi các nơi và được cha dạy Hán tự. Lúc này, Nguyễn Tất Thành ở vào lứa tuổi 11, việc học như thế là quá muộn. Học Hán văn trong ba, bốn năm, học tiếng Pháp và Quốc ngữ cũng ba bốn năm, chưa xong chương trình tiểu học. Học Hán văn như thế thì có là bao. Tản Đà sinh năm 1889, hơn Tất Thành một tuổi, năm 1909 đã đi thi Hương, như vậy về công sức Hán tự, quốc ngữ và chữ Pháp ,Tất Thành thua Tản Đà.


 Nhất là tại nước ta, học Hán Việt, chỉ biết chữ như một tử ngữ chứ không thông thạo ngôn ngữ Trung Hoa. Cho nên sang Trung Quốc phải học tiếng Hoa là chuyện đương nhiên. Lẽ tất nhiên, tại nước ta có nhiều người tự học, hay học ít mà gỉỏi Hán văn, nhưng "không thầy đố mầy làm nên", không đến trường, không rèn luyện lâu dài thì không khá lắm đâu.

 Quỳnh, Vĩnh, Tố, Tốn xuất thân từ trường Thông ngôn chứ không phải tự học như vài người nhận lầm. Tự học, hoặc học ít mà giỏi thì cũng chỉ đọc hiểu, hoặc viết không sai chính tả, không lâm vào cảnh chữ "quá " hóa ra "ngộ" chữ "tộ " đọc thành "tác". Không phải đỗ cử nhân, tiến sĩ Hán học là viết đại tự được. Đó là một ngành thư pháp tài hoa. Còn viết Hoa văn thành bài nghị luận thì e rất khó. Ngay bây giờ, những tiến sĩ tốt nghiệp ở Mỹ chưa chắc đã thông thạo Anh văn vì họ chuyên về chuyên môn, về khoa học. Tiến sĩ của họ là tiến sĩ khoa học, không phải tiến sĩ văn chương.

Trung văn có hai loại, cổ văn và kim văn. Ít người thông thạo cả hai loại kể cả người Trung Quốc chính cống. Đừng tưởng người Việt Nam đỗ cử nhân, tiến sĩ Hán học là viết giỏi Trung văn. Lương Khải Siêu đã chê văn Phan Bội Châu là cổ, bởi vì các cụ ta viết theo cổ văn chứ chẳng phải kim văn. Vì vậy, Hồ Tuấn Hùng và các tác giả khác chê trình độ Trung văn của Nguyết Tất Thành yếu là đúng. không có gì mà phải tự ái! Trần Tế Xương đã tự phán, tự trào:
Tây tự chẳng biết tây,
Hán tự chẳng biết Hán,
Quốc ngữ cũng mù tịt 
Thôi thôi về đi cày!
Trần Tế Xương chỉ có tài thơ nôm còn Anh, Pháp, Hoa đều kém cho nên phải ở nhà xua gà cho vợ. Thế mà lãnh tụ ta vốn liếng Anh, Pháp, Hoa, Nga đều kém mà tung hoành bốn cõi thì cũng nên tự hào mà đừng có buồn giận khi nghe ai chê "con thuyền Nghệ An"!

Lúc Nguyễn Tất Thành cắp sách đi học thì xã hội đã bắt đầu bỏ  Hán học, nhưng Trần Tế Xương, Tản Đà, Phan Khôi vẫn học, vẫn thi, còn cụ Nguyễn Sinh Sắc thì mới hơn, tiến bộ hơn, cụ  cho con học trường tây để " Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò" như Trần Tế Xương đã cười cợt người đương thời!
 
Nguyễn Tất Thành học muộn, lại không liên tục và cố định, tâm lại lo việc kiếm tiền sinh sống cho nên Anh, Pháp, Hoa đều kém là chuyện đương nhiên. Ông làm thông ngôn cho Borodin cũng chỉ là chức vụ trên miệng và trên giấy tờ, nếu làm thông ngôn thì cũng là nói tiếng bồi như các ông "partisan" thời Pháp! Nguyễn Tất Thành ở với Borodin chắc là với tư cách  một nhân viên đặc vụ. Nói như thế là để làm rõ hai nhân vật Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hai người khác nhau. và ở hai hoàn cảnh khác nhau.

Sau khi viết về Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tuấn Hùng viết về Hồ Tập Chương như sau:

 Hồ Tập Chương (HTC) lớn lên ở Đài Loan, từ nhỏ đã được giáo dục nền văn hóa Hán, mới 4 tuổi đã được cha anh dạy học thuộc lòng “Bách Gia Tính”, “Thiên Gia Thi”, đọc sách Luận Ngữ, Mạnh Tử, Trung Dung, và tập viết thư pháp. Mười tuổi, HTC đã bắt đầu học Sơ đẳng rồi Cao đẳng của hệ thống giáo dục Nhật Bản, 20 tuổi tốt nghiệp Cao đẳng công nghiệp Đài Bắc, trình độ tiếng Nhật và tiếng Anh vững vàng. Năm 1929, lúc ấy HTC 29 tuổi, rời Đài Loan đến Thượng Hải, trình độ đọc và viết chữ Hán không thể sai sót, có khả năng viết thư pháp, nói tiếng Khách Gia-Quảng Đông và tiếng Mân Nam-Phúc Kiến lưu loát, còn việc đọc và viết tiếng Anh thì khỏi cần nói đến. Thời kỳ đầu năm 1933, HTC tiếp tục học 5 năm, đã qua lớp huấn luyện đọc và viết tiếng Việt cơ sở và tiếng Pháp cơ sở. Trở lại ý kiến trên, giả thiết thời kỳ tiếp tục học tập này là của NAQ, liệu NAQ có nhu cầu học tập tiếng Việt và tiếng Pháp không? Hiện tại, hồ sơ lưu trữ ở Mạc Tư Khoa chỉ có các bản sao tiếng Việt và tiếng Pháp mà không tìm thấy các bản sao chữ Hán hoặc các bản nháp luyện tập thư pháp chữ Hán. Điều này có thể chứng thực, từ năm 1933 đến năm 1938, người lưu lại tại Mạc Tư Khoa là Hồ Tập Chương chứ không phải Nguyễn Ái Quốc. Huống hồ, thời kỳ này, không thấy NAQ sử dụng Trung văn trong các bài viết đã được công bố, đồng thời cũng chưa từng phát hiện thấy bất cứ một bản thư pháp chữ Hán nào còn lưu lại. Vì sao, từ năm 1938, sau khi rời Mạc Tư Khoa về Trung Quốc, đột nhiên NAQ lại sử dụng Trung văn một cách phổ biến qua hàng loạt bài báo. Chưa hết, ông ta còn làm thơ và viết thư pháp nữa. Nhật ký trong tùLư Sơn hảo là hai trong những ví dụ được kể đến.(Thiên V. ch.1)

Đây là một chứng cớ rất vững vàng xác nhận Hồ Tập Chương đội lốt Hồ Chí Minh. 
 Để phân biệt Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh, Hồ Tuấn Hùng đã đưa ra các luận chứng:
-Trước 1932, Nguyễn Ái Quốc không hề viết các bài thơ, bài luận văn bằng Hoa văn.
-Ngục Trung Nhật Ký là tác phẩm của một Khách gia vì nó mang ngôn ngữ địa phương Đài Loan và lịch sử Đài Loan.

Hồ Tuấn Hùng đã nhấn mạnh điểm này:
 Có khá nhiều bài thơ trong Nhật ký trong tù được tác giả sử dụng tiếng Khách Gia (trong hệ thống Hán ngữ) sáng tác. Những bài thơ này, nếu dùng tiếng Khách Gia đọc diễn cảm, người nghe sẽ nhanh chóng lĩnh hội được nội dung biếu đạt lẫn tình ý hàm chứa trong đó, chứng tỏ trình độ Hán học của tác giả khá uyên bác, không thể chỉ đọc sách vài ba năm mà viết được. Lại nữa, một số bài thơ, nhất là vào thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan, phải là người từng cư trú tại địa bàn Khách Gia, thấm nhuần tư tưởng, tình cảm cộng đồng dân tộc, mới viết được những câu thơ hàm súc mang đặc trưng văn hóa Khách Gia như vậy. 

Tháng 10/1992, giáo sư Hoàng Tranh, Viện Khoa học Xã hội Quảng Tây, nhận thấy độc giả Trung Quốc đọc cuốn Nhật ký trong tù 134 bài của HCM mới được xuất bản có nhiều chỗ khó hiểu, nhất là những địa danh và từ ngữ diễn đạt. Vì vậy, ông đã tiến hành khảo cứu, đính chính và chú giải, sau đó uỷ nhiệm cho Nhà xuất bản Giáo Dục Quảng Tây ấn hành với nhan đề “Chú giải thơ Nhật ký trong tù”. Cuốn sách lấy văn bản từ Nhật ký trong tù 134 bài của nhà xuất bản Văn học Việt Nam, kèm theo bản đồ minh họa và chú giải. 
Tại sao Hoàng Tranh cho là có nhiều chỗ khó hiểu có lẽ là vì tác giả dùng ngôn ngữ điạ phương Đài Loan. 

Hồ Tuấn Hùng là người Đài Loan cho nên những nhận xét của ông về văn chương, ngôn ngữ Đài Loan ắt có thẩm quyền. Hơn nữa, trước đây GS Lê Hữu Mục đã chứng minh thơ Ngục Trung Nhật Ký là của người Trung Quốc. Đọc bài viết của GS Lê Hữu Mục và Hồ Tuấn Hùng thì không có gì phải thắc mắc nhiều. Người viết không dám " múa rìu qua mắt thợ".

Người Hẹ, Khách Gia, hay Hakka,  là một tộc người Hán có tổ tiên được cho là gốc gác ở khu vực các tỉnh Hà Nam và Sơn Tây ở miền bắc Trung Quốc cách đây 2700 năm. Sau họ đã di cư xuống phía nam tập trung ở các tỉnh Quảng Đông, tây Phúc Kiến, Giang Tây, nam Hồ Nam, Quảng Tây, nam Quý Châu, đông nam Tứ Xuyên, các đảo Hải Nam và Đài Loan. Gần đây có người đưa ra thuyết lý cho rằng người Đài Loan, Quảng Đông đều thuộc giống Bách Việt.

Hồ Tuấn Hùng cũng nêu lên bản di chúc của Hồ Chí Minh. Cả hai bản Ngục Trung Nhật Ký và di chúc đều có  vấn đề thiếu trung thực, hay nói thẳng ra là "bất minh", bất chính", "gian trá" vì "đảng" đã sửa chửa, thêm bớt.

Nếu NAQ hay HCM là chủ nhân NTNK thì sao phải đi vòng vo câu chuyện "châu về Hiệp phố" ? Quyển sách này không ghi tên tuổi sao biết người Việt hay người Hoa? Tại sao có người đến Hà Nội trao? Người đó là ai? Ai mà dám vào phủ chủ tịch? hay cơ quan nhà nước? Lẽ nào công an cộng sản không giữ lại, tra hỏi, soát thẻ chứng minh nhân dân? giấy giới thiệu? Sao công an cộng sản lại hiền lành, dễ thương như thế ? GS Lê Hữu Mục viết:
  Sau 1945 có một người từ miền núi về Thủ Đô run run giao  cho nhà cầm quyền một cuốn sổ tay bìa xanh đã bạc màu, bảo đó có lẽ là tập thơ của một chiến sĩ cách mạng nào đó. Cuốn sổ đuợc trao lại cho Viện Bảo Tàng Cách Mạng Việt Nam cất giữ tại Phòng Mặt Trận Thống Nhất Dân Tộc Phản Đế và Mặt Trận Việt Minh.
Không ai biết danh tính người nông dân miền núi đó, cũng không ai nói là lòng tốt của anh, hay ít nhất chuyến đi xa của anh từ miền núi về đến đồng bằng, rồi từ đồng bằng về đến Thủ Đô có được đền bù hay không, người ta cũng không biết đến tên tuổi của nguời đứng ra nhận quyển sổ, ngày nhận quyển sổ đó, không ai thèm ghi ?
Như thế là thế nào ? Như thế có nghĩa là cuốn số đó nhất định không mang tên Hồ chí Minh, nhất định không, bởi vì con ngƣời lúc nào cũng chủ trương ‘’không có, không thấy, không biết’’ ấy dại gì mà để tên mình vào một cuốn sổ cho kẻ thù của mình biết. Chữ viết nhất định cũng không phải của Hồ chí Minh....(HCM, CXXVII)


 Rồi cái gian manh lộ rõ ở trang đầu. Họ sửa chửa lung tung, chỉ câu chuyện " châu về Hiệp Phố " gượng gạo", và sửa chữa 29.8.1932--10.9.1933và 29-8-1942--10.9.1943 . Đó là nói cái bìa, còn bên trong,NTNK cũng như di chúc sửa  hết. HCM sửa đi sửa lại, Lê Duẩn sửa tới sửa lui cái di chúc, còn đám Tố Hữu, thì sửa  nát NTNK, xem thế là đủ kết luận rằng NTNK không phải của Nguyễn Ái Quốc và có lẽ cũng không phải của Hồ Tập Chương, mà là của một người Trung Quốc nào khác.



 

 

 GS. Lê Hữu Mục viết:

Chữ viết nhất định cũng không phải của Hồ chí Minh, vì nếu nghi ngờ là của Hồ chí Minh thì những ông Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp, Vũ Anh đã nhận ra cũng như năm 1943, họ đã nhận ra chữ họ Hồ trong bài. Tân xuất ngục, học đăng sơn (Mới ra tù, tập leo núi). Những đề tài ghi trong cuốn sổ chắc cũng không có gì đặc biệt bởi vì từ 1945 đến 1959, không một chuyên viên nào trong Viện Bảo Tàng Cách Mạng Việt Nam (Viện Louis Finot cũ) đã lưu ý đến nó.
 
Trần dân Tiên, mà mãi đến nay ta mới biết chính là Hồ chí Minh, ngay từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, đã viết Những mẫu chuyện về
đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, kể khá tỉ mỉ về thời gian Hồ chí Minh bị giam trong các nhà tù ở Quảng Tây, cũng cho biết ở trong tù Hồ có làm
thơ, nhưng Trần dân Tiên không nói đến tập thơ. Tố Hữu trong báo cáo đọc trước đại hội lần thứ hai của đảng, tháng 2.1951, hết lời ca ngợi văn
Hồ Chủ Tịch trong những quyển sách giáo dục tư tuởng, trong những lời hiệu triệu, những bức thư...nhưng hoàn toàn không nói đến truyện, cũng
không nói đến thơ. Không ai biết ‘’bác’’ có tập thơ. Mãi đến năm 1958, sau khi đã dẹp xong vụ Nhân Văn-Giai Phẩm, và để đề phòng những vụ nổi dậy khác có thể bùng nổ bất cứ lúc nào, Trung Ương Đảng Cộng Sản trong đó có ủy viên chính thức Tố Hữu, anh hùng trong vụ dẹp Nhân Văn-Giai Phẩm vừa qua, mới nhận thấy nhu cầu cấp bách là phải tăng cường tập trung quyền lãnh đạo văn nghệ vào tay lãnh tụ.

 
Cho đến năm 1958, Hồ Chí Minh chỉ mới viết đƣợc khoảng trên dưới 30 bài văn vần, phần nhiều là những bài vè kháng chiến mà giá trị thi ca khó được những nhà thơ nhà văn như Hoàng Cầm, Trần Dần, Văn Cao, Nguyễn Mạnh Tường chấp nhận. Làm sao cho tổng số các bài thơ đƣợc nhiều hơn gấp đôi gấp ba ?

 
Làm sao cho các bài thơ thực sự có chất thơ xứng đáng là tập thơ của một người cộng sản vĩ đại, hơn nửa thế kỷ đã không ngừng phấn đấu cho lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa, cho tổ quốc, cho loài nguời ? Thế là họ nghĩ ngay đến cuốn sổ tay vô danh bìa màu xanh, họ kéo nó ra khỏi giấc ngủ
yên lành của nó trong Viện Bảo Tàng Cách Mạng, họ chuẩn bị mọi cách để
có thể giao cho nó thi hành một nhiệm vụ lịch sử độc đáo: Nhiệm vụ
khẳng định và đề cao thi tài của lãnh tụ Hồ chí Minh ‘’muôn vàn kính yêu’’.

 
Ta thử nhìn cuốn sổ tay gần hơn, tờ bìa màu xanh đã bạc màu, vào năm 1945 mà nó đã bạc màu thì cuốn sổ này, nếu là của Hồ chí Minh, thì nó phải ở trong tay ông đã lâu, ít nhất là phải mười, mười lăm năm về trước. Trong đầu cuốn sổ ghi bốn chữ Hán Ngục Trung Nhật Ký dƣới bốn chữ này là hai hàng số 29.8.1932/10.9.1933, không biết là tác giả hay ai ghi, ở dưới hai hàng số là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt vần trắc, kèm theo một hình vẽ hai nắm tay bị xích đang giơ lên cao.

 
Phần bên trong có tất cả 47 trang ghi hơn 100 bài thơ. Những trang cuối ghi một số mục nhỏ có tính chất thời sự. Tên tác giả hoàn toàn không có.
Viện Văn Học được giao trách nhiệm tổ chức việc dịch tập thơ từ chữ Hán ra tiếng Việt. Nhiều nhà thơ (Tố Hữu, Nam Trân...), nhiều nhà văn (như Đặng Thái Mai, Hoài Thanh) đã tham gia phiên dịch hoặc hiệu đính bản dịch xuôi và dịch thơ. Người đóng góp nhiều nhất là nhà thơ Nam Trân, tác giả Huế. đẹp và thơ (1939), lúc ông là ủy viên ban Chấp Hành Hội Nhà Văn Việt Nam, về công tác tại Viện Văn Học phụ trách tiểu ban dịch tập thơ chữ Hán Ngục Trung Nhật Ký ra tiếng Việt.


 Công tác dịch bắt đầu từ năm 1959, đầu năm 1960 thì xong, tác phẩm mang tên Việt Nam là Nhật Ký Trong Tù, tác giả là Hồ chí Minh, phần chữ Hán do Phạm phú Tiết viết, nền vẽ của họa sĩ Nguyễn đỗ Cung, bìa do họa sĩ Phạm Hoàng trình bày, in xong đúng vào dịp mừng Hồ chí Minh 70 tuổi Hoài Thanh cho biết: ‘’Tập Ngục Trung Nhật Ký ngay từ lần đầu đã in trên 50 vạn bản mà vẫn không đủ đáp ứng yêu cầu của ngƣời đọc...Chúng ta không những muốn đọc mà còn muốn nghe ngâm, nghe nói. Từ ngày Ngục Trung Nhật Ký ra đời, đã có hàng ngàn cuộc nói chuyện ở các đơn vi bộ đội, các cơ quan, các hội nghi, các trường học, các xí nghiệp, các hợp tác xã ở khắp nơi. Hàng triệu người đã say sưa nghe thơ Bác. Có ngƣời nghe đi nghe lại đến mấy lần. 

Có nhiều người đã khóc vì thuơng Bác muốn cứu mình màphải chịu nhiều khổ nạn...Đó là ở trong nước. Ở ngoài nƣớc, tập thơ vừa ra mắt bạn đọc là liền được dịch, đƣợc giới thiệu, được nhiệt liệt hoan nghênh ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa anh em như Liên Xô, Cu Ba, Đông Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan, Lỗ-ma-ni.v.v...hoặc cả ở các nuớc tư bản như Anh, Pháp, Ý, kể cả Mỹ. Tập thơ đã có tác dụng làm xáo trộn nhiều tâm hồn, người ta yên lặng nghe hết những âm vang của tập thơ và nghe những âm vang ấy cứ ngân dài mãi’’.
 
Từ ngày 19.5.1960 trở đi, tác giả tập thơ Ngục Trung Nhật Ký đã được khẳng định dứt khoát là Hồ Chí Minh, và đây là một thành công vĩ đại của Ban Tuyên Giáo. Ta hãy nghe Viện Văn Học giới thiệu tuyệt tác này của họ: ‘’Đó là cuốn sổ tay của Hồ Chủ Tịch gồm những bài thơ mà Người đã viết trong cảnh lao tù từ mùa Thu 1942 đến mùa Thu 1943’’.
(HCM, CXXVII)

Chúng ta phỏng đoán chính Tố Hữu và ban Văn Hóa , Viện Văn Học đã thực hiện công cuộc trau chuốt, để nối liền một NAQ trước 1932 và HCM sau 1941 , nhằm đánh đổ dư luận về NAQ đã chết 1932, đồng thời để đánh bóng ông ông già là giỏi thơ văn, tinh thông Hán học! Tố Hữu là chuyên viên làm hàng giả, làm hàng giả một cách thành thạo và dễ dàng như ông đã tuyên bố: " Giả mà như thiệt khó chi mô"!(3)

Hồ Tuấn Hùng nêu lên việc "đảng" sửa di chúc.
Bản này viết năm 1969., Hồ Tuấn Hùng nhận định:
Cứ theo logic ngữ nghĩa của đoạn văn này mà xét, tôi phát hiện thấy dấu vết còn lại khá rõ của câu “Năm nay tôi vừa 69 tuổi” bị sửa thành “Năm nay tôi vừa 79 tuổi”. Như vậy, có khả năng nguyên văn bản gốc đoạn “Di chúc” này như sau: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”, nghĩa là, “Người thọ 70 xưa nay hiếm”. Năm nay tôi vừa 69 tuổi, đã là lớp người “xưa nay hiếm”, như thế , đọc vừa thuận miệng, vừa thuận lý mà lại tránh được sự tối nghĩa. 

Cứ tìm trong các bản thảo Hán văn của HCM thì thấy rất rõ, ông không bao giờ viết câu văn lủng củng, mâu thuẫn, đại loại như: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy. Năm nay tôi vừa 79 tuổi”. Huống chi, nội dung “Di chúc” đã phải qua 5 năm chỉnh lý, bổ sung, sửa chữa, không thể có chuyện câu trước câu sau mâu thuẫn với nhau. Từ đó, chúng tôi dự đoán, “Di chúc Hồ Chí Minh, trước tiên được khởi thảo bằng Hán văn, sau đó căn cứ vào bản Hán văn, ông mới dần dần dịch sang tiếng Việt, nên mới được liệt vào loại “văn kiện tuyệt mật” giao cho thư ký riêng Vũ Kỳ bảo quản.

Hồ Chí Minh (Nguyễn Ái Quốc) sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, mà Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) sinh ngày 11 tháng 10 năm 1901, chênh nhau 11 tuổi. HCM tạ thế ngày 2 tháng 9 năm 1969, tính ra thì Nguyễn Ái Quốc tròn 79 tuổi, còn Hồ Tập Chương tính cả tuổi mụ mới đủ 69. Đối chiếu với “Di chúc” (“Nhân sinh thất thập cổ lai hy”, nghĩa là, “Người thọ 70 xưa nay hiếm”. Năm nay tôi vừa 79 tuổi, đã là lớp người “xưa nay hiếm”), lại nói: “Khi người ta đã ngoài 70 xuân, thì tuổi tác càng cao, sức khoẻ càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ”.
(Thiên V)

Từ việc này, chúng ta nghĩ lại việc " bác Hồ đòi lấy vợ", lấy Lâm Y Lan, năm 1958. Ông già 58 tuổi đòi lấy vợ còn dễ nghe hơn ông già  68 tuổi, mặc dầu tại Âu Mỹ và Trung Đông có những ông bà 80-90 còn kết hôn. 

Hồ Tuấn Hùng kể tình sử Hồ Chí Minh- Lâm Y Lan như sau:
Dịp may đã đến. Đó là chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch HCM vào ít năm sau đó. Đào Chú bèn thỉnh cầu Mao Trạch Đông sắp xếp cho ông và nữ cố nhân Quảng Đông gặp mặt. Mao Chủ tịch lập tức gọi điện cho Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông - Đào Chú, LYL và những Ủy viên Thường vụ khác về Bắc Kinh. LYL nhận được tin báo vui mừng đến phát cuồng. HCM kết thúc chuyến thăm Trung Quốc sắp lên máy bay về nước, bỗng nhiên ông nhìn thấy LYL vội sải bước đến gần cô, hai tay nắm chặt không nói nên lời. Hai người nhìn nhau rất lâu, lòng rưng rưng xúc động trào nước mắt. Trước lúc phi cơ khởi trình, LYL lấy cuốn nhật ký ngày nào đưa trả lại HCM, nhẹ nhàng bảo: “Không có anh bên cạnh, lâu rồi tôi không ghi nhật ký, xin gửi lại anh”.

Ủy thác Đào Chú làm mối

Vào một ngày đẹp trời năm 1958, trên bờ sông ở Hà Nội, hai ông già lặng lẽ buông cần câu. Họ chính là HCM và Đào Chú. Lúc ấy HCM thần sắc có vẻ khác thường, trịnh trọng nói với Đào Chú: “TQ có câu ‘Lúc trẻ là vợ chồng, về già là bạn’. Tôi và LYL biết nhau đã hơn hai mươi năm, vì sự nghiệp cách mạng đành tạm gác tình riêng. Đến nay chúng tôi cũng đã có tuổi, muốn đón LYL sang Hà Nội, bí mật tổ chức hôn lễ để thỏa ý nguyện từ những năm trước”. Sau khi về nước, Đào Chú bay đến Bắc Kinh báo cáo sự việc với Trung ương ĐCSTQ. Chủ tịch Mao Trạch Đông chuyển đạt ý nguyện của HCM đến Tổng lý Chu Ân Lai. Tại Phủ Thủ tướng Quốc vụ viện, các vị lãnh đạo đều vô cùng kinh ngạc.

Chuyện hôn sự của Hồ Chí Minh không nhỏ

Mao chủ tịch trầm ngâm một lúc rồi nói: “Nói cho cùng, chính là chúng ta đề xướng ra đoạn tình duyên này, hôn nhân tự chủ, nên đáp ứng nguyện vọng của Hồ Chí Minh, nhưng đây không phải là việc nhỏ, chớ xem thường”.

Hội nghị Bộ Chính Trị Đảng Lao động Việt Nam


Hồ Chí Minh và Lê Duẩn ngồi đối diện nhau, hai bên là các Ủy viên Bộ Chính Trị. Sự việc được đưa ra nhưng mọi người đều im lặng không nói. Cuối cùng HCM đập bàn, đứng lên: “Tôi chịu đựng đủ rồi. Thật tình tôi không nghĩ là sẽ được gặp lại người ta. Tôi có quyền quyết định việc riêng của mình, vì vậy, đề nghị các đồng chí không nên thuyết phục nữa”. Lê Duẩn tuy bất bình nhưng chưa dám gây căng thẳng, vẫn bình tĩnh nói: “Thưa Bác! Bác không nên quá xúc động, phải tính kế lâu dài, nên cân nhắc kỹ rồi hãy hành động. Chúng tôi can ngăn lúc này là vì lo cho Bác. Bác từng nói ‘Việt Nam chưa giải phóng thì đời nay, kiếp này tôi không xây dựng gia đình’. Câu nói ấy có ảnh hưởng rất lớn. Một khi Bác làm trái lời thề thì ý nghĩa của sự nghiệp thần thánh Giải phóng miền Nam cũng như uy tín ‘cha già dân tộc’ của Bác sẽ bị tổn thương, không những thế uy tín của Đảng ta trước phe XHCN cũng như cộng đồng quốc tế cũng bị giảm sút”. Thực ra tâm trạng Lê Duẩn vô cùng mâu thuẫn, ông ta không muốn ép HCM, nhưng vì ở cương vị Bí thư thứ nhất nên bắt buộc phải tỏ thái độ cứng rắn.

Thiểu số phục tùng đa số

HCM thấy Lê Duẩn nhất quyết can thiệp vào hạnh phúc riêng tư của mình, không nói nữa mà bảo: “Theo nguyên tắc, thiểu số phục tùng đa số, đề nghị các đồng chí giơ tay biểu quyết”. Nói rồi ông đưa mắt nhìn sang hai bên. Ý kiến tán thành và phản đối ngang nhau, riêng Lê Duẩn vẫn ngồi im. Mọi người đều chăm chú theo dõi thái độ của Bí thư thứ nhất. Lúc ấy Lê Duẩn mới từ từ nâng tay phải, nhưng đến nửa chừng lại đột nhiên bỏ thõng xuống, thở dài nói: “Tôi không thể làm mất uy tín của Bác”. Điều làm Lê Duẩn giật mình là, HCM không nổi trận lôi đình, trái lại, ông chỉ cười nhạt rồi thong thả rời cuộc họp bước ra ngoài.(Thiên IV. ch.5)

Tại sao ông già không kiếm Lâm Y Lan sớm hơn? Theo đoạn này, HCM tái ngộ LYL trong khoảng thập niên 50. Hơn mười năm xa nhau mà vẫn nhận ra nhau hay sao? Hoặc có sự bố trí, giới thiệu của Trung Cộng? Tại sao không  cưới hỏi lúc này mà để đến năm 1958 mới đặt vấn đề? Sự việc xảy ra không ở trong vườn hoa hay trong một phòng ốc kín đáo mà xảy ra công khai giữa hai đảng. Ai bày ra cái lệ " lấy vợ phải thưa trước với đảng và do đảng quyết định "? 

Ôi! Chống phong kiến, chống hủ tục để rồi lại đặt ra bao hủ tục làm khổ con người trong đó có nạn nhân Trần Dần? Chuyện đời cũng như hành tung chính trị của các cụ " đạo đức cách mạng" thật khó hiểu!

Dẫu sao, ta cũng thấy mối tình Nguyễn Thanh Linh, Lâm Y Lan là để nối NAQ và HCM làm một.
Lại còn hai bài thơ tặng Trần Canh và Vy Quốc Thanh. Một mặt " đảng " ra sức tô vẽ một Hồ Chí Minh văn chương chữ nghĩa, nhưng mấy bài thơ này thì họ giấu đi hay quên đi? Họ bảo là không tìm thấy. Sao vậy?
 
Tặng tướng quân Trần Canh thi sao(1)

Huề trượng đăng cao quan trận địa

Vạn trùng sơn ủng vạn trùng vân
Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thệ diệt sài lang xâm lược quân.

Dịch:


Tặng tướng quân Trần Canh
(1)

Chống gậy lên non xem trận địa

Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây
Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu
Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy.

贈陳賡將軍詩抄
(二)

香檳美酒夜光杯,欲飲琵琶馬上催

醉臥沙場君莫笑,敵人休放一人回

Tặng tướng quân Trần Canh thi sao
(2)

Hương tân mỹ tửu dạ quang bôi

Dục ẩm, tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Địch nhân hưu phóng nhất nhân hồi.

Dịch:


Tặng tướng quân Trần Canh
(2)

Rượu ngọt sâm banh lấp lánh ly

Muốn uống, tỳ bà thúc ngựa phi
Đừng cười say nghỉ nơi trận mạc
Không tha quân địch một tên về.

贈韋國清將軍詩抄


百里尋君未遇君,馬蹄踏碎領頭雲

歸來偶過山梅樹,每朵黃花一點春
Tặng Vi Quốc Thanh tướng quân thi sao

Bách ký tầm quân vị ngộ quân,
Mã đề đạp toái lãnh đầu vân,
Quy lai ngẫu quá sơn mai thụ,
Mỗi đóa hoàng hoa nhất điểm xuân.

Dịch nghĩa:

Tặng Vi Quốc Thanh tướng quân

Trăm dặm đi tìm ông mà chưa gặp ông,

Vó ngựa xéo nát đám mây đầu núi,
Trở về, bỗng đi qua cây mai già trên núi,
Mỗi đóa hoa vàng điểm một nét xuân.


Mãi đến khi các tướng lãnh Trung Quốc viết nhật ký , xuất bản năm 2002 thì họ mới đưa vào Ngục Trung Nhật Ký. Hai bài này viết lúc trận Điện Biên phủ bắt đầu chứ không phải lúc HCM ngồi tù, thế mà họ bỏ vào NTNK. Thiệt là phản động hết sức! ( HỒI KÝ CỐ VẤN TRUNG QUỐC    )

 Mấy bài thơ này khác  những bài thơ trongNTNK vì lời thơ ướt át hơn, lại chịu ảnh hưởng của Đường thi khá nhiều! Phải chăng đây lại là một HCM khác?
 


Tác phẩm " Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo" của Hồ Tuấn Hùng là một tiếng sét giữa trời làm cho bao nhiêu người kinh tâm táng đởm, nhưng nó cũng gây bất bình ở một số người vì Hồ Tuấn Hùng đã lột mặt nạ của thần tượng họ. Tóm lại, qua công trình khảo cứu của Hồ Tuấn Hùng, chúng ta nhận thấy những điểm quan trọng sau:
+1. Nguyễn Ái Quốc đã chết vì ho lao năm 1932
+2. Người đóng vai Hồ Chí Minh từ sau 1932 là Hồ Tập Chương, sinh năm 1909, nhỏ hơn  NAQ 10 tuổi, là người Đài Loan, được Liên Xô huấn luyện đưa về Việt Nam cầm đầu đảng Cộng sản Việt Nam trong âm mưu biến Việt Nam thành tay sai Nga Tàu.
+3. Tìm hồ sơ tại Liên Xô, Hồ Tuấn Hùng thấy trong thời gian 1933 về sau, Hồ Chí Minh học Pháp văn và tiếng Việt. Nếu là người Việt Nam, Hồ Chí Minh không cần phải học hai thứ này, trong khi đó không có giấu tích học Trung văn, tập thư pháp.
+ 4. Trước 1932, NAQ phải học tiếng Hoa, và không thấy có tác phẩm nào viết bằng Trung văn. Thế mà sau 1932, nhất là sau 1945, thơ văn Trung văn xuất hiện rất nhiều. Sự kiện này cho thấy NAQ và HCM là hai người khác nhau.Ta cũng nên biết thêm, tuy giỏi văn thơ Việt Nam và đã học Hán văn nhiều, Trần Tế Xương, Tản Đà, Phan Khôi rất ít khi viết văn thơ chữ Hán!
+5. Truyện tình Nguyễn Thanh Linh, Lâm Y Lan coi như chồng chất lên nhau để buộc NAQ và HCM làm một. Phải chăng NAQ đã chết thật nên Nguyễn Thị Minh Khai lấy Lê Hồng Phong, và NAQ , Hồ Chí Minh là hai người khác nhau cho nên trong đại hội VII cộng đảng Liên Xô, NTMK thờ ơ với HCM? Cộng đảng bào chữa đó là đám cưới giả, nhưng cần gì phải làm đám cưới giả?

+6. NTNK và di chúc có nhiều sửa chữa cho nên mất tính chất chính xác. Tuy nhiên, do sự sửa chữa của cộng đảng, ta thấy rõ NAQ và HCM là hai người khác nhau, và trình độ khác nhau.


Bên cạnh những sự kiện kể trên, chúng ta có thể bổ túc một vài sự kiện khác. 
+1. Tại sao sau vụ GS Lê Hữu Mục  và Hồ Tuấn Hùng tố cáo, chính phủ và bộ Tuyên truyền cộng sản im lặng rất lâu chứ không hung hãn chửi bới như thường lệ? Phải chăng đó là một việc tối quan trọng không ai dám bênh vực, biện hộ một sự thực hiển nhiên khó mở miệng. Nếu NTNK là của Nguyễn Tất Thành thì cần thì phải sửa chữa và bày ra nhiều trò như trò " châu về Hiệp Phố" rất ngây thơ và quê mùa! Quả thật NTNK là của Hồ Tập Chương thì cái tội Hán gian là đúng rồi!Nếu NTNK là của Nguyễn Tất Thành thì phải gọi là Việt gian chứ! Nhiều Việt cộng cho rằng Nguyễn Tất Thành xuất thân con nhà Nho gia cho nên giỏi Hán văn, rành thơ phú!
Đó ĐTrần Dân Tiên viết về HCM là để đề cao mình, bắt nhà văn nhà báo và nhân dân tôn sùng mình, và cũng để nối NAQ và HCM làm một. +3.Qua các hình ảnh, ta thấy có nhiều HCM khác nhau. Luận cứ của Hồ Tuấn Hùng củng cố thêm niềm tin có nhiều HCM giả.Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Hoàng Văn Hoan kề cận sao lại không biết. Biết nhưng họ thủ thân "im lặng là vàng". + 4.Hoàng Văn Chí cho biết khoảng 1941, HCM đột nhiên xuất hiện tại nhà riêng của Nguyễn Khánh Toàn ở Nga, và Hoàng Văn Chí thuật lại như sau:   Như đã tường thuật trong Chương 3, ông Hồ lên đường sang Trung Hoa vào mùa xuân năm 1941; cùng đi với ông có Nguyễn Khánh Toàn. Nhưng cùng ngồi trên xe lửa, ông Hồ nhận thấy Toàn đã mất hết tác phong cách mạng, một điều mà ông quả thực không ngờ. Trong 15 năm sống ở Moscou, Toàn được hưởng quy chế “chuyên viên ngoại quốc”, sống một cuộc đời thảnh thơi với một số lương to hơn lương người bản xứ. Thấy Toàn ăn uống luôn mồm ông Hồ biết là Toàn đã quen thói phong lưu, không thể nào chịu đựng sự gian khổ của một người cách mạng hoạt động trong bóng tối. Vì vậy nên đặt chân đến Diên An, ông Hồ liền thu xếp với Mao gửi Toàn ở lại và hẹn với Toàn là sẽ nhắn Toàn về khi nào cách mạng thành công. Toàn biết vậy và vui vẻ ở lại. (4) Đây là HCM viện cớ  bắt Nguyễn Khánh Toàn ở lại để bịt miệng. HCM chỉ cần NKT về Diên An  và giới thiệu với Trung Cộng đây là HCM là đủ. Vạn sự khởi đầu nan, đưa người bép xép có thể làm lộ chuyện. NKT biết NAQ giả mạo hay không? Biết cũng không dám "tiết lộ bí mật của đảng", là tội đáng phanh thây!  Sau này NKT viết nhật ký, nội dung là để giới thiệu NAQ-HCM là một người. Có như vậy, NKT mới được làm thứ trưởng, nếu không thì y đã được đảng đặc cách cho đi mò tôm ở sông Hương hay bón phân cho cây núi Ngự Bình!   +5.  HCM muốn giấu thân phận nên  không tiếp xúc hoặc lạnh lùng với anh chị. Hoàng Văn Chí viết: Anh ruột ông Hồ là Nguyễn Tất Đạt, thường gọi là ông Cả Đạt. Ông học tài thi phận nên kiếm ăn bằng nghề gõ đầu trẻ. Năm 1946, nghe tin ông Hồ đã trở thành chủ tịch chính phủ, hay nói đúng hơn, chủ tịch Hồ Chí Minh chính là em ruột ông, ông đáp tàu ra Hà Nội mong gặp em sau hơn 30 năm xa cách. Nhưng hồi ấy ông Hồ còn đang dấu tung tích nên không dám tiếp ông anh ở Bắc Bộ phủ. Ông gửi ông Đạt ở nhà một người đồng hương là ông Mai Ngọc Thiệu, và tối ông đến thăm. Hai anh em trò chuyện hồi lâu, sau đó ông Đạt lẳng lặng về Nghệ. Chừng hai năm sau ông Đạt mất, không có dịp gặp ông Hồ trở lại.( sđd, Phần II, chương 3) Các ông Nguyễn Khắc Huyên và Hoàng Quốc Kỳ thuật rằng Ông Khiêm và bà Thanh không bao giờ được gặp ông Hồ vì ông lấy cớ bận công việc mà không tiếp. Khi ông Khiêm chết (1950), ông Hồ không đến thăm nhưng lại đi thăm vợ bác sĩ Tôn Thất Tùng là một giai nhân đang ở cử tại bệnh viện. ( Minh Võ, Hồ Chí Minh- Nhân định tổng hợp, chương 12-14). Nên biết khoảng 1946-1954, nhiều người bị giết một cách bí mật nhưng ai cũng hiểu là do cộng sản thủ tiêu. Ông Hồ giả không muốn gặp thân nhân ông Hồ thật là sợ lộ tẩy.

Tâm Trang cho biết HCM chỉ về Nghệ An hai lần, lần đầu 1957, lần thứ hai năm 1961.Bận công vụ, hay sợ  lộ tung tích mà về it thế? (HCM, CXXXVIII).

Có tài liệu nói ông Sinh Khiêm ở Hà Nội mà ông HCM cũng chẳng đến thăm. Ông này mất năm 1950 vì lý do gì?
+6.Việc ông bị Lê Duẩn, Lê Đức Thọ quản thúc khoảng 1963 (theo Nguyễn Văn Trấn, Viết Cho Mẹ và Quốc Hội) phải chăng bọn họ đã biết ông Hồ là "Hán gian"?

+ 7. Nhiều tài liệu khác nhau viết về giờ cuối của HCM. Trước tiên là báo Việt Nam nói về phút cuối của HCM. Họ đề cao HCM yêu dân ca, yêu nước Việt Nam . Nghệ sĩ ưu tú Quỳnh Hoa viết rất chân thành sâu sắc trong bài"Tình yêu Bác Hồ giành cho những khúc dân ca".  




  Đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài báo, lời ca, câu truyện… ngợi ca vẻ đẹp con nguời Hồ Chí Minh - đó là vẻ đẹp của sự hoàn mỹ nhưng không xa lạ, vĩ đại mà gần gũi thân thương, toả sáng mà ấm áp hiền hoà. Bản thân Người, cuộc đời của Người là nguồn đề tài bất tận cho tất thảy những ai khao khát mong muốn cái đẹp “gieo mầm cho sự sống”..  . Và trước muôn vàn câu truyện kể về Người, trái tim tôi lại trào lên xúc cảm trước những phút giây cuối cùng trong cuộc đời Bác – đó là câu truyện về tình yêu của Người dành cho những khúc hát dân ca. Vào buổi sáng ngày 2/9/1969, đây là buổi sáng cuối cùng trong cuộc đời 79 mùa xuân của Bác. Bởi sau 9 giờ sáng hôm ấy Người thực sự bước vào “ cuộc trường chinh nhẹ cánh bay”, để lại cho nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới một niềm đau thương, mất mát không thể nào diễn tả nổi bằng mọi ngôn từ. 
Không gian của câu truyện cũng chỉ thu nhỏ trong căn nhà A67. Căn phòng này cách ngôi nhà sàn của Bác chỉ vài chục bước chân. Trước đó, theo lời đề nghị của bác sỹ, để tiện cho việc theo dõi, chăm sóc sức khoẻ của Người, ngày 18/8/1969, các đồng chí trong Bộ Chính trị và những đồng chí trực tiếp chăm sóc Bác đã chuyển Bác xuống ở căn phòng này. 
Sau gần 20 ngày chống chọi với bệnh tật, Bác đã yếu lắm. Nhưng hễ tỉnh lại là ngay lập tức, Người hỏi thăm tình hình chiến đấu ở miền Nam, tình hình lũ lụt ở miền Bắc. Người còn dặn các đồng chí trong Bộ Chính trị phải làm sao tổ chức ngày lễ Quốc khánh thật long trọng để nhân dân vui, phải bắn pháo hoa cho nhân dân phấn khởi. Trong những giây phút cuối cùng, đứng giữa ranh giới mong manh của sự sống và cái chết, đối diện với quy luật nghiệt ngã của sự tồn vong Bác vẫn luôn nghĩ cho đồng bào, cho đất nước mà “ nâng niu tất cả chỉ quên mình”. Nằm trên giường bệnh, sáng 2/9, lúc này Người đã rất mệt, mong muốn cuối cùng của Người là được gặp và thăm đồng bào miền Nam không thực hiện được, hơi thở của người mỗi lúc một yếu dần. Các đồng chí trong Bộ Chính trị và các bác sỹ không ai nỡ rời xa Người dù chỉ là một phút. Lần đầu tiên tỉnh lại sau cơn đau, Người nhìn xung quanh rồi hỏi:
- Trong các chú có ai biết hò Huế không?
Mọi người lúng túng nhìn nhau, quả là một tình huống không ai chuẩn bị trước. Thường ngày, Người vẫn thường nói “ miền Nam luôn ở trong trái tim tôi”, thêm vào đó Huế vốn là mảnh đất gắn bó cùng Người suốt một thời gian dài tuổi thơ. Giờ đây, trong những phút cuối cùng, có lẽ Người mong muốn mang hình ảnh miền Nam yêu thương, hình ảnh núi Ngự, sông Hương với những kỷ niệm buồn đau theo mình vào cõi vĩnh hằng bất tử. Nỗi niềm ấy của người dường như ai cũng thấu hiểu, nhưng tìm nghệ sỹ hò Huế lúc này thật khó.
Lần thứ hai tỉnh lại, Người lại hỏi. Lúc này giọng người đã yếu hơn nhiều:
- Trong các chú, ai có thể hát cho Bác nghe một làn điệu ví dặm Nghệ Tĩnh được không?
Thêm một lần nữa sự im lặng và bối rối bao trùm căn phòng. Câu ví dặm câu hát dân ca xứ Nghệ đã bao bọc và nuôi dưỡng tâm hồn Người từ thủa lọt lòng. Ngươì lớn lên và đi ra thế giới từ chiếc nội văn hoá quê hương mặn mòi tình nghĩa ấy. Trước giây phút sắp biệt ly Người khao khát được nghe, được sống trong hơi ấm quê hương.
Lần thứ ba tỉnh lại, Người ngỏ ý muốn nghe một khúc dân ca quan họ Bắc Ninh, lần này thật may mắn khi cô y tá bé nhỏ Ngô Thị Oanh tiến lại gần Bác: “Thưa Bác, cháu xin hát cho Bác nghe ạ”. Với chất giọng trong trẻo của người con gái Vĩnh Phúc, chị cất lời hát “ Ngươì ở đừng về”.. Căn phòng nhỏ chìm trong tiếng hát. tiếng hát hay tiếng lòng! Không ai phân biệt được. Chỉ biết rằng lời quan họ sâu lắng, tha thiết quá. “ Người ơi, người ở đừng về. Mà người ơi, người ở đừng về” đã nói hộ lòng người. Cô y tá càng hát càng ngẹn ngào, những người xung quanh không ai cầm được nước mắt. 9 giờ 47 phút ngày 2/9/1969 trái tim vĩ đại của Bác Hồ đã ngừng đập, để lại muôm vàn tình thưong yêu cho đồng bào cả nước. Sinh ra và lớn lên từ trong câu hát dân ca, từ điệu ví dặm ầu ơ ngọt ngào đằm thắm của mẹ, cuối cùng Ngươì thanh thản nhẹ nhàng bước vào cuộc trường sinh bằng âm hưởng tiếng hát dân ca.
Sau này, trong một bài báo tôi còn đựơc biết chị Ngô Thị Oanh, cô y tá viện quân y 108, người hát khúc hát dân ca “ Ngươì ở đừng về” vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời Bác kể lại: Sau khi chị hát xong, Bác Hồ nhìn chị, chị cảm giác như Bác đang mỉm cười. Người còn bảo lấy bông hoa hồng bạch trên bàn mang tặng chị. Cử chỉ nhỏ mà ý nghĩa thật to lớn. Cho đến phút cuối đời, quên cả nỗi đau đang vò xé, Người vẫn giành trọn niềm yêu thương, sự quan tâm đặc biệt cho mỗi người, đặc biệt là phụ nữ. Và bông hoa hồng nhỏ bé ấy chị đã ép khô để luôn giữ và xem nó là vật kỷ niệm thiêng liêng theo chị suốt cả cuộc đời.
(HCM, XXIV)

  Cũng viết về giờ phút cuối của HCM, báo Trung Quốc trong bài "CỰU ĐẠI SỨ TQ TỪNG NHƯ THƯ KÝ RIÊNG VÀ Ở BÊN HỒ CHÍ MINH ĐẾN CUỐI ĐỜI"

Người đó là  Trương Đức Duy,phiên dịch tiếng Việt có thâm niên của nước ta, sinh năm 1930 ở Quảng Đông, từng là Hoa kiều học tập tại Việt Nam.Năm 1954, tham gia thành lập Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, phụ trách phần phiên dịch và điều tra nghiên cứu, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Trung Quốc tại Việt Nam.

Năm 1967, Hồ Chí Minh bị bệnh đến Trung Quốc nghỉ dưỡng, Trương Đức Duy làm phiên dịch theo suốt cả thời gian này. Trong khoảng thời gian 2 năm sau đó, Trương Đức Duy luôn ở bên Hồ Chí Minh cho đến khi Hồ Chí Minh qua đời.   ...


 Trị liệu được hơn 2 tháng, hiệu quả chữa trị rõ, Hồ Chí Minh rất hài lòng, vì nhớ đến cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của Việt Nam, nên ngày 1 tháng 7 năm 1967 đã rời Quảng Châu quay về Hà Nội."

It lâu, HCM bị bệnh, lại được đưa qua Trung Quốc, nằm tại Nhà điều dưỡng Trung ương Ngọc Tuyền Sơn ở Bắc Kinh dưỡng bệnh trong hơn nửa năm.

Trong khoảng thời gian 2 năm tiếp đó, Tổ chăm sóc y tế còn từng 3 lần đến Hà Nội chữa bệnh cho Hồ Chí Minh. Mùa hè năm 1969, Hồ Chí Minh muốn để cho Tổ chăm sóc y tế được về Trung Quốc nghỉ phép 1 tháng, tiện thể nhờ Trương Đức Duy mang thư đến cho Thủ tướng Chu Ân Lai luôn.  
 
Vào trung tuần tháng 8 năm đó, Hồ Chí Minh ra ngoài đi thị sát đột nhiên bị cảm, dẫn đến viêm phế quản cấp, từng bị choáng mất một lúc. Cả bệnh tim và bệnh mạch máu não cùng phát, tiếp đến viêm phế quản chuyển thành viêm phổi cấp.
Bắt đầu từ ngày 25 tháng 8, Bắc Kinh điều sang thêm liên tiếp 2 tốp chuyên gia và đội chăm sóc y tế Đông, Tây y…, mang theo các loại thuốc cấp cứu và dụng cụ đáp chuyên cơ tới Hà Nội. Các thầy thuốc Trung Quốc thay phiên túc trực ngày đêm bên giường bệnh Hồ Chí Minh, đã dùng một loạt các biện pháp trị liệu, nhưng đều không thấy có hiệu quả.
“Tôi còn nhớ rất rõ, trong những ngày tháng cuối cùng ấy, ông cụ tỏ ra rất yên lặng”. Trương Đức Duy nói, ông luôn ở trước giường Hồ Chí Minh, có lần Hồ Chí Minh bị hôn mê khi tỉnh lại, nhìn thấy  hộ lý Trung Quốc đứng bên giường còn yêu cầu các cô hát.  
Hai cô hộ lý liền khẽ hát bài hát “Ca ngợi xã hội chủ nghĩa” đã quen thuộc với mọi người.

Hồ Chí Minh nghe xong mỉm cười gật đầu, mãn nguyện chìm vào giấc ngủ.
Rạng sáng ngày 2 tháng 9, Hồ Chí Minh đã không còn tự chủ được hơi thở, tim ngừng đập hoàn toàn. Các bác sĩ Trung Quốc đã sử dụng mọi loại thiết bị, nhưng cuối cùng vẫn không thể hồi phục được nhịp tim cho ông cụ.
Ba tốp chuyên gia chăm sóc y tế do Chu Ân Lai lệnh điều thêm vào ngày hôm đó còn chưa kịp tới Hà Nội thì tử thần đã cướp đi mất sinh mạng của Hồ Chí Minh. Đồng hồ điểm đúng 9 giờ 47 phút ngày 2 tháng 9 năm 1969, Hồ Chí Minh đã không vượt qua nổi cái mốc 79 tuổi. (Nguồn:  “Báo Pháp chế buổi chiều”)
(HCM, XXIII )


Gần đây, một người lớn lên trong thiên đàng XHCN đã viết cảm xúc của mình trong ngày " bác đi xa" . Đó là Mẹ Nấm trong bài  "Đâu Mới Là Sự Thật?"

  Trong năm học cuối cấp 2, mình có một buổi ngoại khóa tìm hiểu về dân ca - ca dao Việt Nam, cô giáo mình đã hát và giới thiệu bài hát "Lời Bác dặn trước lúc đi xa" - của nhạc sỹ Trần Hoàn - để làm ví dụ minh họa cho giá trị tinh thần vô giá của kho tàng ca dao - tục ngữ - dân ca Việt Nam.

Khi Internet xuất hiện, mình có đọc ở đâu đó bản tin về việc "nghe nhạc trên giường bệnh của Hồ Chí Minh, nó hoàn toàn trái ngược với những gì mình được nghe, được học. Mình nhớ là mình có đem việc này trao đổi với vài người lớn và họ bảo mình thật là vớ vẩn khi đi tin vào mấy tờ báo "phản động".
Khi search trên Google sự ra đời của nhạc phẩm "Lời Bác dặn trước lúc đi xa" nó ra thế này:
“Chuyện kể rằng trước lúc Người đi xa... Bác muốn nghe một đôi làn quan họ. Ôi may sao bỗng có em gái nhỏ... Rồi căn phòng xao động trong nước mắt. Những lời ca nức nở tái tê, rằng Người ơi Người ở đừng về...” - Những ca từ trong bài hát: “Lời Bác dặn trước lúc đi xa” của nhạc sỹ Trần Hoàn mỗi khi cất lên đã làm lay động hồn người bao thế hệ kể từ khi Bác Hồ đi xa mãi mãi. Nhưng hẳn nhiều người còn chưa rõ, nhân vật “em gái nhỏ” ngoài đời đó là ai?... 
Hạnh phúc bất ngờ
Chúng ta đều biết rằng, ngày 2-9-1969, Bác Hồ - vị Cha già của dân tộc đã vĩnh biệt đồng bào, đồng chí, mãi mãi đi vào cõi vĩnh hằng. Những giây phút cuối cùng bên giường bệnh của Người là một câu chuyện thật giàu chất nhân văn, mỗi lần nghe đến, ai cũng thấy nao lòng. Một trong những câu chuyện lịch sử thật cảm động này là nguồn cảm hứng cho nhạc sĩ Trần Hoàn sáng tác ca khúc “Lời Bác dặn trước lúc đi xa”. Trong ca khúc của Trần Hoàn có nhân vật “em gái nhỏ” đã hát khúc dân ca trong một hoàn cảnh đặc biệt, chính là chị Ngô Thị Oanh, quê ở vùng đất bãi Yên Lạc - Vĩnh Phúc, nguyên y tá Viện Quân y 108 (nay là Bệnh viện Trung ương Quân đội 108).
Về những giờ phút cuối cùng bên Người, chị Ngô Thị Oanh kể, năm đó, chị vừa tròn 20 tuổi, là y tá công tác tại khoa phòng mổ Bệnh viện 108. Ngày 22-8-1969, Chính uỷ Viện 108, Lê Đình Lý gọi 4 người, gồm có bác sĩ chủ nhiệm khoa Nguyễn Xuân Bích, bác sĩ Lê Phúc và 2 y tá Trần Thị Quý và Ngô Thị Oanh chuẩn bị đi làm nhiệm vụ đặc biệt. Khoảng 18 giờ ngày 23-8, cả đoàn lên chiếc xe hồng thập tự đi làm nhiệm vụ mà không biết đi đâu. Vào đến Phủ Chủ tịch, mọi người mới biết được vinh dự vào chăm sóc sức khoẻ Bác. Một lát sau, đồng chí Vũ Kỳ, thư ký của Bác Hồ đến nói với mọi người trong tổ công tác: “Mấy hôm nay Bác mệt, cấp trên yêu cầu các cô, các chú đến chăm sóc sức khoẻ Bác”.
Nghe đồng chí Vũ Kỳ phổ biến về nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ Bác Hồ thì chị Oanh và mọi người... run lên vì hạnh phúc đến quá bất ngờ. Đêm đầu tiên tại Phủ Chủ tịch, mọi người không ai ngủ được vì niềm hạnh phúc sắp được ở bên người Cha kính yêu của dân tộc. Sáng hôm sau, đồng chí Vũ Kỳ đưa đoàn vào gặp Bác. Bác mệt, nằm trên chiếc giường gỗ. Đồng chí Vũ Kỳ vẫy hai chị em gồm Oanh và Quý đến bên giường, giới thiệu với Bác: “Đây là hai y tá của Bệnh viện Quân đội 108 vào chăm sóc sức khoẻ Bác”. 

Bác xua tay nói: “Chú đừng làm phiền đến các cháu. Còn chiến tranh, để các cháu phục vụ thương bệnh binh. Sức khoẻ Bác chưa đến nỗi...”. Nhưng hai nữ y tá Oanh, Quý vẫn được ở lại phục vụ Bác thường xuyên, cho đến ngày Người ra đi...
“Những lời ca nức nở, tái tê...”
Chị Oanh còn nhớ, sáng sớm 2-9, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào thăm Bác. Bác hỏi: “Sáng nay các chú tổ chức đồng bào mít-tinh thế nào?” Một lần, Bác đang hỏi chuyện về vùng quê Yên Lạc, Vĩnh Phúc của chị thì đồng chí Vũ Kỳ đi vào. Là người giúp việc Bác từ những ngày đầu cách mạng, nên đồng chí Vũ Kỳ hiểu được tâm nguyện của Bác lúc này. Ông nói với chị Oanh: “Cô có biết hát thì hát Bác nghe?” Tuy chưa bao giờ hát đơn ca, chỉ thỉnh thoảng tham gia văn nghệ quần chúng ở đơn vị, nên chị Oanh có vẻ ngập ngừng. Thấy vậy đồng chí Vũ Kỳ động viên: “Cô cứ mạnh dạn lên”.
Chị Oanh thoáng nghĩ điều hạnh phúc được vào phục vụ Bác, giờ lại được hát cho Bác nghe, hạnh phúc càng được nhân lên. Chị mạnh dạn xin phép Bác hát bài: “Chiến sĩ quân y làm theo lời Bác” của nhạc sỹ Đỗ Niệm. Hát xong, đồng chí Vũ Kỳ động viên: “Cô có thuộc bài dân ca nào thì hát tiếp đi nhé!...”. Lần này, mạnh dạn hơn, chị Oanh hát bài dân ca quan họ Bắc Ninh: “Người ơi, người ở đừng về”. Trong tâm trạng bùi ngùi, lo lắng trước sức khoẻ của Người, chị Oanh chẳng thể hát trọn khúc dân ca, nhưng vẫn được Bác động viên, vỗ tay và bảo đồng chí Vũ Kỳ lấy bông hồng đang cắm trong lọ tặng chị. Được Bác tặng hoa, chị Oanh sung sướng và hạnh phúc vô cùng, cứ đứng ngây ra, ấp úng mãi mới nói được nên lời cảm ơn Bác...
Sau này, trong một lần nhạc sĩ Trần Hoàn được nghe đồng chí Vũ Kỳ kể câu chuyện về cô y tá hát dâng Bác khúc dân ca quan họ “Người ơi người ở đừng về”, tâm hồn người nghệ sĩ bỗng dâng trào cảm hứng sáng tác. Không lâu sau đó bài hát “Lời Bác dặn trước lúc đi xa” ra đời với những cảm xúc thiết tha, lay động lòng người. Điều đáng nói là dù giai điệu mà hầu như người dân nước Việt nào cũng thuộc lòng: “Bác muốn nghe một đôi làn quan họ. Ôi may sao bỗng có em gái nhỏ... Rồi căn phòng xao động trong nước mắt. Những lời ca nức nở tái tê, rằng Người ơi Người ở đừng về...” mà Nhạc sĩ Trần Hoàn sáng tác ra khi mới chỉ nghe kể về cô gái, chưa một lần gặp mặt. Một thời gian sau, ông quyết định đi tìm cô gái để thoả mãn lòng mong mỏi của khán thính giả nghe nhạc. Và nhạc sĩ đã gặp cô tại Viện Quân y 108 trong trang phục nữ chiến sĩ áo trắng...
Bông hồng trắng buổi ấy cùng một vài kỷ vật khác trong những ngày cuối cùng bên Bác, chị Ngô Thị Oanh giữ gìn như báu vật. Cho đến tận bây giờ, mỗi lần nghe ca khúc của nhạc sĩ Trần Hoàn, chị lại chan chứa nước mắt..."
Hôm qua, được đọc một bài báo cũng nói về "hoàn cảnh nghe nhạc" trước lúc ra đi của Hồ Chí Minh, trên trang Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, mình thấy phân vân quá.
Ba lần Bác cười trước lúc đi xa
QĐND - Thứ Hai, 25/01/2010, 20:33 (GMT+7)
“...Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã rời xa chúng ta, nhưng hình ảnh ba lần nhìn thấy nụ cười hiền hậu của Người mãi khắc sâu trong tôi. Sự nhẹ nhàng thanh thoát, những ngôn ngữ, cử chỉ thân thiết của Người, tôi luôn mang theo suốt cuộc đời...”.
Là y tá trưởng của Bệnh viện Bắc Kinh, từ những năm 60 của thế kỉ trước, tôi làm công tác chăm sóc sức khỏe bên cạnh Thủ tướng Chu Ân Lai. Tiếp nhận chỉ thị của Thủ tướng Chu Ân Lai, tôi được phân công vào đội ngũ chăm sóc sức khỏe Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày 24-8-1969, trời Bắc Kinh oi nồng, không một chút gió. Đêm xuống, tôi giội ào một cái cho mát, chuẩn bị lên giường đi ngủ. Đột nhiên nghe tiếng gõ cửa dồn dập. Tôi vội dậy mở cửa. Thì ra là người của bệnh viện tới, nói rằng: “Có việc khẩn, lập tức lên đường”.
.......
Bác mỉm cười sau khúc hát của tôi
Ngày 31-8-1969, bệnh tình của Bác đột nhiên tăng lên. Hôn mê không tỉnh. Các chuyên gia bình tĩnh, kịp thời đưa ra biện pháp cấp cứu phù hợp. Bác sĩ Hồ Húc Đông xuyên kim vào tim Bác để bơm thuốc trợ lực tim. Thành công rồi! Chủ tịch Hồ Chí Minh từ từ tỉnh lại, Bác mở mắt ra, nhìn khắp một lượt các y, bác sĩ trong phòng. Mọi người cảm động không nói nên lời. Tổ trưởng Trương Hiếu lại gần bên Bác, khẽ gọi: "Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, Người thấy trong mình hiện giờ thế nào? Còn chỗ nào chưa thấy thoải mái?". Bác khẽ lắc đầu, một lúc sau Bác ra hiệu muốn ăn một chút.
Chiều hôm đó sức khỏe của Bác đã có chuyển biến tốt lên một chút, Bác nói muốn nghe một câu hát Trung Quốc. Các đồng chí đề nghị tôi hát. Tôi nói thật là hát cũng không tốt lắm, nhưng để vui lòng Bác, vì tình hữu nghị Trung-Việt, tôi đã hát một bài hát mà nhiều người thuộc và hát được, bài hát có nội dung chính là ra khơi xa phải vững tay chèo. Bác nghe xong rất vui, Bác nở nụ cười hiền từ. Bác nắm nhẹ tay tôi, tặng tôi một bông hoa biểu thị cảm ơn. Đó là lần thứ ba tôi thấy Bác cười. Và đó cũng là nụ cười cuối cùng của Người.
Sáng ngày 2-9-1969, trái tim Chủ tịch Hồ Chí Minh ngừng đập. Người đã vĩnh viễn đi xa. Chúng tôi không cầm được nỗi buồn, nước mắt tuôn trào. Đứng bên giường bệnh của Người, vô cùng buồn thương… và từ biệt Người. Ngày 9-9-1969, toàn bộ tổ chữa trị đã cùng lãnh đạo và nhân dân Việt Nam tham gia lễ truy điệu được cử hành tại Hội trường Ba Đình. Hai ngày sau chúng tôi rời Hà Nội về nước. Để ghi nhận công lao của các bác sĩ, y tá trong các tổ y tế đã tham gia chữa trị cho Bác Hồ, Chính phủ Việt Nam đã tặng nhiều huân chương cao quý cho thành viên trong tổ y tế.
* Vương Tinh Minh, y tá trưởng Bệnh viện Bắc Kinh, thành viên Tổ bác sĩ Trung Quốc sang Việt Nam chữa bệnh cho Bác Hồ, tháng 8-1969.
NGUYỄN HÒA biên dịch
(HCM, XXV)

Qua các tài liệu trên, chúng ta sẽ thấy vô cùng phức tạp. HCM giờ cuối nghe nhạc Việt hay nhạc Tàu? Tại sao người Trung Quốc "săn sóc" HCM cho đến phút cuối? Điều này cho ta biết Hồ Chí Minh là người Trung Quốc cho nên luônn luôn được Trung Quốc, săn sóc, bảo vđể khỏi tiết lộ bí mật. Có thể sau khi ông Hồ từ trần, các xác của ông đã được đem về Trung Quốc. Các xác ở Ba Đình không biết là của ai. Tại sao Việt Nam lại nói khác?Vì họ cũng phải giấu diếm. Việt Nam ta  lúc này sống trong lãnh đạo tập thể, làm ăn tập thể cho nên nói dối cũng là tập thể! Cả một tập thể dối trá từ HCM, Trần Hoàn, Vũ Kỳ, Quỳnh Hoa,Ngô Thị Oanh và đảng...đều là một tập thể dối trá, gian lận.Họ nói dối để che đây hành vị bán nước của họ. Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Tố Hữu, Trần Hòan.. lẽ nào không biết từ lâu chúng đã tôn một người Trung Cộng lãnh đạo nước ta?Hđã đồng mưu với Hồ Chí Minh dâng đất cho Trung Quốc và cam phận nô lệ, phản bội công lao tiền nhân.

+8. Có tin thông báo cháu của HCM về thăm Đài Loan:


Cháu Nội Hồ Chí Minh Thăm Đài Bắc

Đăng ngày: 04:52 24-01-2010

TAIPEI (VB, Trần Đông Đức) Hồ Chí Minh có vợ con, không phải là chuyện bí mật đối với các sở tình báo Trung Quốc, Đài Loan, Liên Xô. Điều này đã được viết trong nhiều sách và tài liệu, mặc dù còn bị bưng bít ở VN. "Cháu nội của Hồ Chí Minh thăm viếng Đài Loan" là bản tin đặc biệt của nhà văn Trần Đông Đức, dịch từ công báo Đài Bắc Huyện Phủ, Trung Ương Xã Đài Loan. Toàn văn bản tin như sau.
Lời giới thiệu: Trong lúc dân Việt Nam trong nước chưa được quyền bàn tới những bí ẩn về chuyện Tổng bí thư ĐCS Việt Nam Nông Đức Mạnh là con của Hồ Chí Minh, thì tại Đài Loan - Nhân chuyến viếng thăm của Trần Phương, con ruột của Nông Đức Mạnh hiện đang làm trưởng uỷ hội dân tộc thiểu số, xử lý thường vụ quốc tế được báo chí Đài Loan đưa tin "Trần Phương, cháu nội của lãnh tụ Hồ Chí Minh" một cách rất bình thản.

Thông tin này coi cá nhân của Trần Phương như là một yếu nhân của Việt Nam đã đến Đài Loan hai lần và người đó là con của Nông Đức Mạnh.
Có dư luận cho rằng Nông Đức Mạnh cũng đã từng để báo chí ngoại quốc "bắn tiếng" giùm có quan hệ cha con với Hồ Chí Minh và sử dụng lá bài huyền thoại tinh thần để đạt được mục tiêu chính trị. Đến đời con cháu cũng làm tương tự.

Báo chí Đài Loan không để ý hoặc cố ý nhấn mạnh chuyện Nông Đức Mạnh là con ngoại hôn của Hồ Chí Minh. Chúng tôi xin dịch bản tin này lưu trữ lại trong website của huyện phủ Đài Loan từ tháng trước. Mọi suy đoán về nhân vật Trần Phương, dụng ý và tham vọng của cha con Nông - Trần xin giành cho độc giả. Chúng tôi hy vọng có nhiều nhân sĩ trong nước sẽ kiểm chứng được thông tin về con cái của Nông Đức Mạnh và chức vụ họ đang nắm tại Việt Nam.

Khi dịch bản tin chúng tôi không có tư liệu để rà soát tên chính xác của bộ phận cơ quan và chức vụ mà Trần Phương đang nắm giữ, chỉ mô phỏng địa vị theo bản tin Hoa Ngữ.

Bản tin của Trung Ương Xã, do ký giả Hoàng Húc Thăng tại Đài Bắc Huyện Phủ báo đề ngày 24/09/2004.
Cháu nội của Hồ Chí Minh, Trần Phương tới thăm Huyện Phủ Đài Bắc quan sát sự phát triển thành thị.
Trần Phương, xử lý trưởng uỷ ban dân tộc thiểu số, xử lý thường vụ quốc tế của Việt Nam hôm nay (09/24/2004) đã tới thăm huyện phủ Đài Bắc. Phó huyện trưởng Tăng Tham Bảo tiếp đón và giới thiệu kinh nghiệm phát triển của huyện Đài Bắc. Trần Phương là con của hiện nhiệm tổng bí thư Nông Đức Mạnh, là nhân viên tiếp ban chính trị góp ý trợ giúp cho phụ thân của mình. Ông nội của Trần Phương là Hồ Chí Minh, lãnh tụ tinh thần của Việt Nam. [Tha đích tổ phụ thị Việt Nam tinh thần lãnh tụ Hồ Chí Minh].

Trần Phương nói rằng vài năm gần đây, người ngoại quốc đầu tư tại Việt Nam như thương nhân Đài Loan tỉ lệ rất cao. Ông ta nói rằng chính phủ Việt Nam đặc biệt chú ý đến ba hạng sản nghiệp như cơ giới, điện tử và nông nghiệp. Đối với hoàn cảnh đầu tư tại Việt Nam, cần nhà cầm quyền tại Đài Loan có lòng tin, và Trần Phương còn có ý muốn mời thủ trưởng huyện phủ Đài Bắc đến viếng thăm Việt Nam.

Trần Phương đến Đài Loan lần này là lần thứ hai. Ông ta nói: làng thôn Việt Nam còn quá bần cùng, so với sự giàu có của nông dân Đài Loan. Cho nên đặc biệt tới đất này để quan sát tận mắt.
Tăng Tham Bảo kể rằng, trước kia còn làm trong bộ kinh tế, ông ta đã từng tới Việt Nam, đối với hoàn cảnh đầu tư ổn định (tại Việt Nam), trước mắt (Đài Loan) đã có nhiều dự án rất thành công.
Qua những lời giới thiệu, Trần Phương hiểu rõ khái lược về huyện phủ Đài Bắc, chuyến đi này theo ông là tới Đài Loan cốt để học hỏi. Sau khi về nước, sẽ dự tính tuyển chọn một thành thị nào đó học tập theo hướng đi của Đài Bắc huyện phủ.

***Ghi chú của người dịch: Huyện Phủ Đài Bắc bao gồm cả thành phố Đài Bắc, thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc tại Đài Loan. Việt Nam cũng như nhiều nước không có ngoại giao với Đài Loan mà thừa nhận Đài Loan là bộ phân của Trung Quốc theo sức ép của Trung Cộng
http://vn.360plus.yahoo.com/theodore-roosevelt/article?mid=26&fid=-1 


SBTN: Đài Loan Loan Tin Cháu Nội Hồ Chí Minh Thăm Đài Bắc



Date:  Aug 05,2010 06:20 pm
Tin Đài Bắc - Hồ Chí Minh có vợ con, không phải là chuyện bí mật đối với các sở tình báo Trung Cộng, Đài Loan, Liên Xô. Điều này đã được viết trong nhiều sách và tài liệu, mặc dù còn bị bưng bít ở Việt Nam. Trong tuần qua tờ Công báo Đài Bắc đã loan một tin cho biết cháu nội của Hồ Chí Minh thăm viếng Đài Loan, khi cho rằng Trần Phương là con ruột của Nông Đức Mạnh hiện đang làm trưởng uỷ hội dân tộc thiểu số, xử lý thường vụ quốc tế đã đến thăm đảo quốc này, mà báo chí Đài Loan gọi họ Trần là cháu nội của lãnh tụ Hồ Chí Minh một cách rất bình thản.

Báo chí Đài Loan không để ý hoặc cố ý nhấn mạnh chuyện Nông Đức Mạnh là con ngoại hôn của Hồ Chí Minh, chỉ nói Trần Phương tới thăm Huyện Phủ Đài Bắc quan sát sự phát triển thành thị, và đã được Phó huyện trưởng Tăng Tham Bảo tiếp đón và giới thiệu kinh nghiệm phát triển của huyện Đài Bắc. Bài báo viết rõ ông nội của họ Trần là Hồ Chí Minh, lãnh tụ của đảng Cộng sản Việt Nam. Họ Trần tuyên bố vài năm gần đây, người ngoại quốc đầu tư tại Việt Nam như thương nhân Đài Loan tỉ lệ rất cao, và nói nhà cầm quyền Việt Nam đặc biệt chú ý đến ba hạng sản nghiệp như cơ giới, điện tử và nông nghiệp.

Đối với hoàn cảnh đầu tư tại Việt Nam, cần chính phủ Đài Loan có lòng tin, và Trần Phương còn có ý muốn mời thủ trưởng huyện phủ Đài Bắc đến viếng thăm Việt Nam. Trần Phương đến Đài Loan lần này là lần thứ hai. Mới đây một người con khác của Nông Đức Mạnh là Nông Quốc Tuấn đã được đưa lên làm Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Bắc Giang, phụ trách công tác xây dựng Đảng. Đây là khu vực đã diễn ra cuộc biểu tình của hàng chục ngàn người chống lại Công an, khi chúng lợi dụng quyền lực đã đánh chết một thanh niên tại địa phương chỉ vì lái xe không đội nón an toàn.

Source: http://www.sbtn.net/default.aspx?LangID=38&tabId=193&ArticleID=51194&Page=1

(HCM, XXXVI ) 

  Tin này đã được đài SBTN và các blog loan báo, trong khi đảng Cộng sản Việt Nam im lặng.



Trong các bài báo phản đối Hồ Tuấn Hùng đáng kể nhất là bài của Bùi Tín. Ông Bùi Tín vốn mang hàm đại tá, là cựu quan lớn của triều Hồ, sau sang Paris, mang nhãn hiệu "nhân vật bất đồng chính kiến". Ông đã viết nhiều tác phẩm công kích cựu chúa nhưng qua bài "Những luận điệu hoang tưởng, bịa đặt ", chúng ta thấy "bác Hồ vẫn sống mãi trong trái tim"  ông, và "không ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn ông"! Ông tức giận vì có kẻ dám "xúc phạm rất ngang nhiên và tuỳ tiện ông Hồ, coi người lãnh đạo đảng CS Việt nam không ra gì"...Các tác phẩm ông viết trước đây là mặt giả, nay mới là "Mặt Thật" của Thành Tín!

Ông viết như sau:

Theo tôi đây là một chuyện dựng đứng, bịa đặt, hoang tưởng, không có gì là nghiên cứu khoa học nghiêm chỉnh cả.  Tôi đưa ra vài dẫn chứng: sau khi ông Hồ về ở Hà Nội Tháng 8-1945, bà Thanh, chị ruột ông Hồ, ra gặp ông, hai người lập tức nhận ra nhau, và ông Hồ trở lại nói hoàn toàn giọng Nghệ An, với âm sắc riêng của vùng Thanh Chương - Nam Đàn, hỏi thăm rất nhiều người trong họ đã chết và còn sống.
Bà Thanh còn nhìn hai tai ông, mũi và cằm ông, nói: "đúng là tai, mũi và cằm của thằng Coong thời trẻ".
Rồi năm 1957, khi ông Hồ về thăm quê cũ ở Kim Liên, ông đi ngay vào ngõ bên trái nhà ông khi xưa, không đi vào cổng mới làm sau này, sau đó tự ông sang lò rèn phía trái để hỏi thăm các cụ ở lò rèn xa xưa, nơi ông thường qua lại khi còn bé.
Làm sao một người Tàu quê ở đảo Đài Loan lại có thể nói tiếng Nghệ An, lại theo thổ âm Nam Đàn, và nhập vai trọn vẹn là em ruột bà Thanh, và về quê Kim Liên xa lạ, lại am hiểu địa hình và nhân vật làng quê cũ xa xưa thuần thục đến như vậy!
(HCM, LXXIII)


Người viết chỉ là thường dân, không phải tướng tá,  cũng không hề qua một lớp huấn luyện về an ninh tình báo của chính quyền  nào,  chỉ là một kẻ ham mê tiểu thuyết, nhất là tiểu thuyết trinh thám. Nhưng với óc suy luận, xin được phép hỏi và trả lời những câu hỏi trên của ông. Chắc ông cũng đã biết it nhiều về KGB, về phản gián chứ không là một thư sinh ngây thơ vì nghe nói thuở thiếu thời ông đã làm sát thủ hay lãnh đạo sát thủ như Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trấn, Văn Cao...

(1). Vậy khi bà Thanh ra thăm HCM, ông có ở đó không mà biết rành đến thế? Ông có được vinh dự kề cận " bác " như Vũ Đình Huỳnh,Vũ Kỳ hay Hoàng Tùng không? Năm 1945, ông chắc chỉ là cậu thanh niên 18 tuổi, mới vào dân quân, bộ đội địa phương hay chánh quy ở nơi nào? Có được ở gần Hà Nội không? Phúc đức nhà ông, con quan lớn nhà đại phong kiến mà được khang ninh là điều hiếm có, hơn nữa còn vinh thăng đạì tá, ắt hẳn phấn đấu phi thường. Nhưng thành công là sau này, còn tháng 8-1945, tôi nghĩ ông còn chạy vòng ngoài, chưa được đặt chân vào Chủ tịch phủ. Hay là lúc này, cậu Bùi Tín thường xuyên theo cha vào thăm "bác"? 

(2). Tôi đã nghe đi nghe lại các cuộn băng ghi âm thanh của "bác", tôi thấy "bác" không nói đúng giọng Thanh Chương - Nam Đàn của Nghệ An.
Næm 2004, bà Lâm Thu Vân tại Canada cho tái bän tÆp Phùng Cung dày 375 trang,  trong đó truyện Ván c© khai xuân mang tính cách Än dø. Không gian cûa truyŒn là làng ViŒt, ngø š là ÇÃt nܧc ViŒt Nam. Nhân vÆt chính trong truyŒn là ông Ba, là hình änh cûa HÒ Chí Minh :
Ông Ba dåt Çi tØ bao gi©, làm gì, ª Çâu, ch£ng ai bi‰t. NgÜ©i làng ViŒt chÌ  thÃy ông Ba b‡ng nhiên xuÃt hiŒn ª làng tØ trܧc ngày NhÆt Çäo chính Pháp.  ..Khi Ãy ông ba Çã bܧc sang tu°i già, nhÜng còn tráng kiŒn l¡m.! Gi†ng nói cûa ông hÖi lÖ l§ Xå phang ho¥c mán, Th° . ( 68)


Phùng Cung nói đúng, Xạ phang, Mán, Thổ cũng là dân vùng gần Quảng Đông, là giống người Hẹ, người Khách gia...

 Tuy nhiên bàn về việc này cũng không chính xác vì người ta đi biệt xứ lâu năm thì giọng nói có khác. Bảo rằng giọng ông Hồ đúng giọng Nghệ An thì e không đúng. Ông chỉ nói lơ lớ Nghệ An.
Hơn nữa, cái giọng của HCM trong các băng có thể là do các tài tử đóng, dù có giống giọng của "bác", cũng không phải giọng Nghệ An.

3. Bùi Tín nói rằng ông Hồ là người Nghệ an, là Nguyễn Sinh Cung cho nên đã nhận đúng đường  đi lối vào nhà! Ông làm đến đại tá lại "ngây thơ cụ" như thế sao?  Chuyện này dễ ợt. Ban ngày hay ban đêm, "bác Đài Loan " cải trang đi theo hướng dẫn của thủ hạ, một hai lần là nhớ ngay!

Và tiếng nói cũng vậy, luyện tập vài năm là được. Không đúng 90% thì cũng được 60%  là đủ xài. Có phải thiên hạ đều là mật thám đâu mà sợ họ phát giác!Chúng ta há không nghe cô Ỷ Lan người Anh nói giọng Huế sao? Và biết bao ca sĩ ngoại quốc hát tiếng Việt, ca vọng cổ?

(4). Nếu ông Đài Loan sửa mặt mũi, tóc tai, có đủ các vết thẹo, và thuộc lòng các chuyện thời trẻ, các nhân vật trong gia đình thì không có gì lạ lùng trong thế giới trinh thám. Người ta sưu tra rồi cho gián điệp học thuộc lòng là xong ngay. Có gì đâu trò trẻ con đó mà ca tụng thần thánh!



Không biết Bùi Tín ngây thơ hay giả ngây thơ?Nếu ông ngây thơ thì làm sao tồn tại trong chế độ cộng sản mà lên hàm đại tá ư?Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy. Kinh nghiệm đời của ông tất phải phong phú trong khu rừng ma quỷ cùng bao sự đời khôn dại.Như vậy lý luận của ông là không thật với người ông. Thứ hai, lý luận và dẫn chứng chỉ là tưởng tượng, là gian dối, cốt để biện hộ qua loa để lập thành tích bảo vệ uy tín lãnh tụ. Ông bảo Hồ Tuấn Hùng dối trá nhưng chính ông mới là dối trá theo truyền thống dối trá của tập đoàn cộng sản.Thứ ba là lý luận và dẫn chứng của ông là trái với xã hội. Không lẽ ông theo cộng sản lâu năm nên đã  bị "vô sản hóa' , đánh mất truyền thống gia phong Bùi tộc và dân tộc Việt Nam. Thông thường khi nhỏ, cha mẹ, anh chị gọi em là thằng con , nhưng khi con em khôn lớn, trừ khi tức giận, không ai gọi con em là thằng con. Cha mẹ gọi tôn là anh chị, còn anh chị em cũng gọi tôn là chú, bác, cậu cô chứ không bao giò gọi bằng thằng dù là dân quê thất học. Như xem đây đoạn đối thoại trong "Mảnh Đất Lắm Người Nhiều Ma" của Nguyễn Khắc Trường:
Vợ con Thủ đang nấu cơm, thấy Hàm, đều chào lễ phép:
- Bác sang chơi ạ
Hàm chỉ khẽ ờ, rồi tập tễnh bước lên nhà trên. Dù là anh em ruột, Hàm cũng giữ lề luật không bao giờ vào nhà bếp. Không nói giỗ tết, ngay ngày thường anh em giúp nhau làm gì, đến bữa cũng chỉ có đàn ông ngồi với nhau ở nhà trên.
- Bác ở đây chơi, em nấu cơm bác - Vợ Thủ người sồ sề, mặt rỗ hoa chứ không được mỏng mày hay hạt như bà Son, nhưng được cái sởi lởi, lên nhà mời.
Ông Hàm xua tay:
- Thôi tôi gặp chú ấy một tý, rồi về ngay có việc.
(ch.4)
Đoạn văn trên là của con người XHCN viết về thời đạiXHCN chứ không phải thực dân phong kiến, nó mang tính chất truyền thống văn hóa dân tộc mặc dầu có thời theo lệnh đảng con gọi cha bằng thằng... "thằng địa chủ" và con xưng" ông" cũng tác phẩm trên:
Đến lượt mình, Phúc bước ra, mở đầu bằng câu hỏi:
- Địa chủ Đại, mày có biết tao là ai không?
Ông bố đã trả lời thế này:
- Dạ thưa tôi có biết ông, vì tôi đã trót đẻ ra ông!
Đồng chí Hùng Cường đang ngồi bàn chủ tọa phủ chiếc chăn hoa, liền đập bàn đánh rình, đứng dậy:
- Địa chủ Đại không được ăn nói xỏ xiên! Đây chính là bản chất ngoan cố của giai cấp bóc lột.(Ch.1)
 Bùi Tín viết :Bà Thanh còn nhìn hai tai ông, mũi và cằm ông, nói: "đúng là tai, mũi và cằm của thằng Coong thời trẻ". Thông thường, buổi tái ngộ, hoặc sơ ngộ, không ai nói thế đâu!  Nếu hai cha con đi với nhau, người ta sẽ bảo:" Thằng bé giống tai, mắt bố nó quá"! Không ai nói ông già tai mắt mũi miệng giống lúc trẻ vì đó là điều tất nhiên, trừ ra khi có sửa đổi dung mạo.  Bà Thanh nói như vậy là khi có ai đó gặp HCM và nói rằng ông Hồ không giống Nguyễn Tất Thành khi trẻ, thì bà Thanh vì tin tưởng ,vì bị lừa mà nói vậy.
 Điều này cho thấy Bùi Tín đã sai lầm khi viết đối thọai của bà Thanh. HCM lúc này trên 50, lại là chủ tịch nước, sao bà Thanh dám gọi là "thằng Coong"?

Bác sĩ Trần Văn Tích đã góp ý với Bùi Tín như sau:
Trong khi vấn đề ông Hồ Chí Minh vốn người Nghệ An là một sự kiện lịch sử thì các chuyện do ông Bùi Tín nêu ra lại thuộc loại dật sự. Dật sự thường là chuyện kể gọn gàng về một sự kiện thú vị, lạ lùng, có ý nghĩa, ít người biết. Dật sự có thể mang tính chân lý lịch sử nhiều hay ít. Vua Lê khởi nghĩa đánh quân Minh là một sự kiện lịch sử......Tuy nhiên, cố gắng nói lên “tiếng nói ngay thật”, tôi xin thành thực nhận rằng tôi tiếp thu các dật sự do Vũ Phương Đề, Đoàn Thị Điểm kể một cách trung tính trong khi các dật sự do Trần Dân Tiên, Trần Huy Liệu, Đặng Xuân Trừng kể thì tôi tiếp thu một cách âm tính. Các dật sự do ông Bùi Tín kể cũng được bộ não tôi ghi nhận theo cách thứ hai. Tôi rất tiếc, nhưng biết sao hơn, “rằng quen mất nết đi rồi“. Tuy nhiên nay được đọc dật sự về chuyện hai tai, hai mắt và cằm của chú bé hồi nhỏ tên Coong với nhiều chi tiết mới thì tôi chuyển sang tin dật sự liên hệ hơn trước chút chút. Nhưng chuyện ông Hồ nói tiếng Nghệ An theo đúng thổ âm Nam Đàn thì tôi lại vẫn chưa có thể tin ông Bùi Tín nhiều hơn. Với những thủ đoạn độc đáo của các cơ quan phản gián, khi có được một thời gian dài hằng chục năm, kế hoạch đào tạo ra một người nói đặc giọng Nghệ An không phải là bất khả thi. Nếu người Tàu bắt cóc vài ba thanh niên thanh nữ Thanh Chương Nam Đàn rồi đem về cho “tam cùng” với nhân vật được chỉ định đóng vai ông Hồ thì người lên ngôi Chủ tịch nước Việt Nam sau này có thể nói đặc giọng Nghệ An lắm. Cựu Thủ tướng nước Đức Gerhard Schröder có người chị họ tên Renate G. sinh sống trong vùng Đông Đức cũ và được cơ quan Stasi (Mật vụ Đông Đức) tuyển làm nhân viên Toán 26, Ban 5, qui tụ mười bốn điệp viên. Chỉ cần hai năm, Stasi rèn luyện chu đáo, huấn nghệ kỹ lưỡng để bà trở thành một mật báo viên đắc lực nói lưu loát tiếng Anh đúng giọng Oxford của giới ngoại giao. Phản gián Bắc Hàn từng bắt cóc nhiều người Nhật Bản để các điệp viên của họ thực tập sống theo cách Nhật (HCM, XIX)
 Tiếp theo, Bùi Tín viết như sau:
 Để cố tô vẽ một điều hoang tưởng thành sự thật, nhà xuất bản Đài loan khoe rằng tác giả là nhà nghiên cứu lịch sử nghiêm chỉnh(!), có 30 năm là giáo sư ở Khoa sử Đại học Quốc gia Đài loan, người cùng dân tộc Miêu Lật với ông Hồ Tập Chương ( là ông Hồ giả), đã nghiên cứu kỹ các hồ sơ của Anh, Nhật, Trung hoa, Việt nam trong nhiều năm trời...

Họ làm như thế để làm gì ?  Để bán sách? Một giả thuyết nữa, hay là những người có tư tưởng bành trướng Đại Hán bên Tàu muốn chuẩn bị tư tưởng cho dân Việt để - trong một tương lai gần hay xa, Việt nam sẽ "tình nguyện" một cách cưỡng bức thành một tỉnh của Trung quốc, với một lãnh tụ vốn dĩ là một người Trung quốc đặc sệt 100 % chánh hiệu(!
).


 Dù ra ngoại quốc nhiều năm và tỏ ra là con người giác ngộ, sự thật Bùi Tín vẫn mang nhiều ô uế, và  độc hại của cộng sản. Ông cũng như Lê Đức Thọ, Lê Duẩn, Đinh Đức Thiện khinh miệt trí thức, chê bai bằng cấp và sự học hành nghiên cứu của phe tư bản. 
Cái bệnh vô sản mà kiêu căng đã thấm vào cốt tủy ủa họ từ trước 1945 cho đến nay. Trương Tửu ngày xưa chỉ học tiểu học, học lỏm bỏm Mác Lê, trong khi phê phán Truyện Kiều, đã nói rằng những ai không biết Duy Vật Biện Chứng Pháp là ngu, còn ai biết Duy Vật Biện chứng pháp là thông minh tài giỏi. Kết quả gần cuối đời,ông đã thấy cái tài giỏi của Mác Lê nó áp dụng trực tiếp vào ông. Rồi sau 1975, các đồng chí vĩ đại tuyên bố họ đã tốt nghiệp đại học chống Mỹ, các ông tiến sĩ Âu Mỹ là đồ bỏ. Trên thế giới này, chỉ có giống cộng sản là ưu việt, là trí tuệ đỉnh cao của loài người. Đó là cái tính tự đắc, tự cao mà các cụ ta gọi là "tiểu nhân đăc chí tiếu hi hi". Ngoài ra họ cũng cho họ yêu nước. Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học đều sai lầm, không thông minh và yêu nước bằng họ. Sau 30-4-1975, một số người ra đi theo chương trình HO, các ông Công an và bộ Nội vụ Cộng sản đã nhìn đám sĩ quan
 " ngụy" và gia đình họ bằng cặp mắt khinh bỉ và họ đã ra mặt bậc thầy dạy dỗ đám này lòng yêu nước bằng cách bắt họ nghe bản nhạc " Quê hương là chùm khế ngọt" trước khi lên máy bay!  Kiêu căng nhất là Trần Văn Trà. Thắng miền Nam, Trần Văn Trà cho đó là công lao của ông, và ông thẳng cánh chê bọn trung ương đảng ngu dốt hèn nhát trong đó có các bậc đàn anh của ông như Lê Duẩn, Lê ĐứcThọ. Lãnh tụ của họ, họ còn coi khinh huống hồ tướng tá, bộ trưởng, tiến sĩ miền Nam!  Cái kiêu căng, hợm hĩnh của HCM đã truyền sang con cháu ông gột rửa bao nước biển Đông cũng không sạch. Họ đề cao họ tận mây xanh trong khi vu cáo đối phương bằng trăm ngàn cách. HCM đã vu cáo nhóm đệ tứ Quốc tế ăn tiền của Đức, vu cáo nông dân nghèo là địa chủ bóc lột, vu cáo nhân dân là tay sai thực dân và cho đàn em mặc tình chém giết, Họ vu  Võ Phiến lãnh đạo văn nghệ phản động ở Mỹ, và chúng ta là tay sai của Mỹ, ăn tiền của Mỹ...Nay xem văn Bùi Tín thì cũng thấy "ngựa quen đường cũ", chưa bỏ được truyền thống tâng bốc phe ta và mạ lị vu khống người trái ý mình! Cũng theo thói quen cộng sản, ông vu khống, và mai mỉa  rằng nhà xuất và tác giả là hoang tưởng, vụ lợi (để bán sách), và khoe khoang  rằng tác giả là nhà nghiên cứu lịch sử nghiêm chỉnh(!), có 30 năm là giáo sư ở Khoa sử Đại học Quốc gia Đài loan, người cùng dân tộc Miêu Lật với ông Hồ Tập Chương ( là ông Hồ giả), đã nghiên cứu kỹ các hồ sơ của Anh, Nhật, Trung hoa, Việt nam trong nhiều năm trời... (Trong khi đó NAQ, HCM làm bao điều gian dối, họ vẫn ca tụng không tiếc lời. Ai thẳng thắn vạch những sai trái là họ nổi thịnh nộ !)


  Đi xa hơn nữa, ông vu khống Hồ Tuấn Hùng và nhà xuất bản làm tay sai cho Đại Hán bành trướng. Chúng ta không nghĩ như vậy. Tác phẩm của Hồ Tuấn Hùng là một tố cáo âm mưu gian xảo của Đệ tam quốc tế, trong đó có Trung Cộng đã tìm những mưu mánh gian xảo để xâm chiếm Việt Nam trong đó có việc  cho một người Miêu Lật đóng vai Nguyễn Ái Quốc để khống chế VIệt Nam và ký các văn kiện bất bình đẳng nhằm giao Việt Nam cho Trung Cộng. Như vậy là Hồ Tuấn Hùng nói lên sự thật lịch sử và chống tư tưởng và âm mưu Đại Hán xâm lược chứ không phải làm tay sai cho Trung Cộng như bao người Việt đã không theo Lê Lợi, Quang Trung mà theo Trần Ich Tắc, Chiêu Thống, Hoàng Văn Hoan..



Hồ Tuấn Hùng đã cho ta biết sự thật về Hồ Chí Minh giả mạo , và thâm kế của Nga Tàu trong âm mưu xâm lược Việt Nam và thế giới. Trong tương lại sẽ có những hồi ký tố cáo HCM giả mạo, và việc dùng  DNA sẽ xác nhận sự thực. Ngày đó sẽ không xa.

____

(1). Ngày 27-10-1953 tôi từ Côn Đảo về Sài Gòn cùng với ông Bùi Văn Phái hơn 60 tuổi, bằng tàu của Hồng Thập tự Quốc tế. ..
Khoảng 20-11-1953 tôi ra đến Khu căn cứ của Thành uỷ Hải Phòng ở huyện Quỳnh Côi, Thái Bình, được Văn phòng Thành uỷ thu xếp cho ở tại nhà chú Siêu thôn Đồn Xá, Quỳnh Côi. Còn Văn phòng Thành uỷ ở thôn An Phú cách chỗ tôi ở khoảng 1 km. Đón tôi tại trạm giao thông của Thành uỷ tại Quỳnh Côi có đồng chí Vũ Kính, ... Một vài anh em được tha, hoặc vượt ngục ra trước tôi đều phải ở rất xa Thành uỷ. Chỉ có mình tôi được ở gần cơ quan Thành uỷ. Sau khoảng một tuần nghỉ ngơi cho lại sức, tôi bước vào giai đoạn thẩm tra việc bị bắt, bị tù... Thành uỷ lập riêng một tổ thẩm tra do đồng chí Hoàng Mậu, Khu uỷ viên Khu uỷ Tả Ngạn, Bí thư Thành uỷ Hải Phòng làm tổ trưởng (cựu tù chính trị Côn Đảo thời kì 1930-1936); đồng chí Lê Thành Dương, Phó ban Tổ chức Thành uỷ và đồng chí Đào Luyện, Trưởng phòng chính trị Ti Công an làm uỷ viên. Trong hơn hai tháng thẩm tra, tôi chỉ ở nhà chú Siêu thôn Đồn Xá, trừ 3 ngày phải di chuyển sang Hải Dương vì có tin địch tấn công vào Thái Bình phải tạm lánh sang huyện Ninh Giang, Hải Dương. ( 
ĐOÀN DUY THÀNH * HỒI KÝ  I)Vì việc ngồi tù này, sau khi làm Phó thủ tướng, ông bị Đỗ Mười nghi làm gián điệp, bị cộng đảng quấy rầy.






No comments:

Post a Comment